Professional Documents
Culture Documents
II. Cơ sở vật lý
Chụp hình ảnh chức năng dựa vào phương pháp đánh dấu phóng xạ. Các đặc điểm
của phương pháp:
Đồng vị phóng xạ và đồng vị bền chịu mọi quá trình sinh lý và sinh hóa như nhau
trong tổ chức sống. Nói một cách khác là tổ chức sống từ mực độ phân tử đến toàn
cơ thể hay cả cá thể nhiều vi sinh vật cũng không phân biệt được đồng vị hay đvpx
trong hoạt động sinh học của mình trong lúc đó lại có thể dễ ghi đo chúng qua các
bức xạ phát ra.
Khối lượng các chất đánh dấu thường rất thường rất nhỏ và không gây nên sự ảnh
hưởng nào đến hoạt động nào đến hoạt động của tổ chức sống. Các kỹ thuật áp
dụng trong y học hạt nhân thường là không gây thương tổn( Non-invasive) bởi vì
cao nhất cũng chỉ là thủ thuật tĩnh mạch.
Chất đánh dấu (Tracer) lý tưởng nhất cần có đặc điểm sau đây:
Có tính chất hoàn toàn giống như đối tương cần khảo sát
Chất đánh dấu được hấp thụ hoàn, nhanh chóng và chỉ riêng ngay tại cơ quan, mô
cần khảo sát (Target Organ)
Nồng độ của nó ít thay đổi tại chổ trong suốt quá trình khảo sát.
Sau khi khảo sát xong, nó nhanh chóng và hoàn toàn được đảo thải ra khỏi cơ thế.
Bức xạ phát ra từ chất đánh dấu dễ dàng ghi do được bằng các phương tiện sẵn có
(Loại tia ,năng lượng tia)
Tạo ra liều hấp thụ thấp nhất
cơ chế bắt giữ FDG kkhi chụp phát hiện sớm ung thư bằng pet –ct
III. Ứng dụng trong chẩn đoán
Cơ sở: Dựa trên cơ sở phương pháp nguyên tử đánh dấu và sự hấp thụ bức
xạ khác nhau giữa các tế bào và mô cũng như mô lành và mô bệnh.
Yêu cầu: Lựa chọn các đồng vị phóng xạ có độc tính phóng xạ thấp, dễ thu
nhận bằng các máy đo xạ, chu kì bán rã không ngắn quá hoặc dài quá, thải
trừ khỏi cơ thể trong một thời gian không dài.
Ví dụ: P32 có T=14,5 ngày, phát tia β có năng lượng 1,7MeV, dùng để chẩn đoán
và điều trị bệnh về máu, điều trị giảm đau do di căn ung thư xương,…
I131 có T=8,05 ngày, phát tia β có năng lượng 0,2MeV và tia γ có năng lượng
0,008; 0,282; 0,363; 0,637MeV, dùng để chẩn đoán chức năng tuyến giáp, chức
năng thận, hấp thụ ở đường tiêu hóa,…
1. Kỹ thuật đánh dấu phóng xạ - Ghi hình phóng xạ:
Kỹ thuật đánh dấu phóng xạ: được ứng dụng rộng rãi trong y sinh học dựa
trên các nguyên tắc:
- Đồng vị phóng xạ và đồng vị bền có tác dụng sinh lý – sinh hóa như nhau
lên tổ chức sống
- Khối lượng các chất đánh dấu nhỏ không ảnh hưởng tới hoạt động sống
- Các kỹ thuật áp dụng trong y học hạt nhân không gây tổn thương
- Liều chiếu xạ một lần nhưng chúng ta có thể khảo sát hoặc ghi hình nhiều
lần
Ứng dụng phổ biến nhất của kỹ thuật đánh dấu phóng xạ là để ghi hình
phóng xạ (xạ hình). Đó là việc thể hiện bằng hình ảnh các bức xạ phát ra
từ các mô, phủ tạng và tổn thương các mô trong trong cơ thể bệnh nhân để
đánh giá sự phân bố các dược chất phóng xạ. Phương pháp này được tiến
hành qua 2 bước:
Đưa dược chất phóng xạ và dược chất phóng xạ đó phải tập trung
được ở những mô, cơ quan định nghiên cứu và phải được lưu giữ ở đó
một thời gian đủ dài.
Sự phân bố trong không gian của dược chất phóng xạ sẽ được ghi
thành hình ảnh. Hình ảnh này được gọi là xạ hình đồ, ghi hình nhấp
nháy.
Xạ hình không chỉ là phương pháp chẩn đoán hình ảnh đơn thuần về hình thái
mà nó còn giúp ta hiểu và đánh giá được chức năng của cơ quan, phủ tạng và một
số biến đổi bệnh lí khác.
Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, người ta đã chế tạo ra
nhiều loại máy ghi hình hiện đại trong y học hạt nhân như SPECT (single
photon emission computerized tomography: xạ hình cắt lớp đơn photon),
PET (positron emission tomography: xạ hình cắt lớp phát positron). Các
kỹ thuật tiếp theo là SPECT/CT, PET/CT với ưu điểm nổi bật là cho thông
tin về sự thay đổi chức năng một cách chính xác về vị trí cấu trúc ở các đối
tượng ghi hình. Chúng ta cần lưu ý rằng sự thay đổi chức năng thường xảy
ra sớm hơn sự thay đổi về cấu trúc, đó chính là ưu điểm của phương pháp
chụp chức năng (phóng xạ) so với chụp ảnh cấu trúc (tia X).
a. Máy SPECT (single photon emission computerized tomography: xạ hình cắt
lớp đơn photon)
Kỹ thuật SPECT phát triển trên cơ sở CT- Scanner. Nhưng trong SPECT
không có chùm tia X nữa mà là các photon gamma của các ĐVPX đã được đưa
vào cơ thể bệnh nhân dưới dạng các DCPX để đánh dấu đối tượng cần ghi hình.
Chùm bức xạ photon được phát ra từ bên trong cơ thể do phát ra đồng vị phóng
xạ được đưa (uống, tiêm..) vào nơi cần chụp ảnh và chùm bức xạ phát ra được ghi
nhận đồng thời bởi hệ detector quay quanh bệnh nhân. Tuy mật độ chùm photon
phát ra khá lớn, nhưng đầu dò chỉ ghi nhận được từng photon riêng biệt nên được
gọi là chụp đơn photon.
Hiện nay người ta kết hợp ghi hình SPECT với CT tạo ra máy SPECT/CT, tức
là ghép 2 loại đầu dò trên cùng một máy và dùng chung hệ thống ghi nhận lưu giữ
tín hiệu, các kỹ thuật xử lý của máy tính. Hệ thống này cho hình ảnh như ghép
chồng hình ảnh CT với xạ hình nên cho phép vừa xác định chính xác vị trí giải
phẫu (nhờ CT) các tổn thương vừa đánh giá được chức năng (nhờ xạ hình).
b. Máy PET (positron emission tomography: xạ hình cắt lớp phát positron).
Một Positron phát ra từ hạt nhân nguyên tử tồn tại rất ngắn, chỉ đi được một
quãng đường cực ngắn rồi kết hợp với một điện tử tự do tích điện âm trong mô và
ở vào một trạng thái kích thích gọi là positronium. Positronium tồn tại rất ngắn và
gần như ngay lập tức chuyển hoá thành 2 photon có năng lượng 511 keV phát ra
theo 2 chiều ngược nhau trên cùng một trục với điểm xuất phát. Người ta gọi đó là
hiện tượng huỷ hạt (annihilation).
Nếu đặt 2 detector đối diện nguồn phát positron và dùng mạch trùng phùng
(coincidence) thì có thể ghi nhận 2 photon đồng thời đó. Do vậy các đầu đếm nhấp
nháy có thể xác định vị trí phát ra positron (cũng tức là của các photon đó). Vị trí
đó phải nằm trên đường nối liền 2 detector đã ghi nhận chúng. Người ta gọi đó là
đường trùng phùng (coincidence line). Trong cùng một thời điểm máy có thể ghi
nhận được hàng triệu dữ liệu như vậy, tạo nên hình ảnh phân bố hoạt độ phóng xạ
trong không gian của đối tượng đã đánh dấu phóng xạ trước đó.
Điểm đặc biệt đối với việc ghi hình bằng máy PET là phải sử dụng các ĐVPX
phát positron. Tuy nhiên các ĐVPX này có thời gian bán rã ngắn nên bên cạnh
máy PET phải có Cyclotron để sản xuất ĐVPX.
Máy PET (bên trái) và Cyclotron (bên phải) để sản xuất các ĐVPX có đời
sống ngắn
Gần đây người ta đã nghiên cứu tạo ra hệ thống kết hợp PET với CT – Scanner
tức là ghép 2 loại đầu dò trên một máy và dùng chung hệ thống ghi nhận lưu giữ số
liệu, các kỹ thuật của PC.
Hình ảnh trên đã mô tả các bộ phận cơ bản trong máy xạ trị gia tốc bao gồm các bộ
phận như:
Ngoài những bộ phận đã có trên ảnh, thì máy xạ trị gia tốc còn có những bộ phận
khác như hệ thống điều khiển và theo dõi bệnh nhân, bộ phận làm nguội và chân
không, hệ thống khóa liên động…Bên cạnh đó, đầu máy còn được lắp thêm một số
bộ phận như đèn báo kích thước và hướng chùm tia, gương phản xạ…
Cơ chế hoạt động :
- Các electron được sinh ra do bức xạ nhiệt từ súng điện tử, được phát ra
thành xung và phun vào buồng tăng tốc.
- Trong quá trình hoạt động của máy, hệ thống ống dẫn sóng và sung electron
được hút chân không dưới áp suất thấp để tạo giảm ma sát giữa các nguyên
tử khí trong suốt quãng đường chúng chuyển động, từ đó làm tăng tốc độ
của tia bức xạ
- Thay đổi tần số vi sóng sẽ giúp biến đổi năng lượng chuyển động của các
chùm tia bức xạ, các máy gia tốc thế hệ mới sẽ dùng các sóng siêu cao tần
để làm cho chùm hạt tia xạ chuyển động với tốc độ gần bằng tốc độ ánh
sáng.
- Để hội tụ chùm tai lại theo hướng và vị trí mong muốn thì cần tới hệ thống
hội tụ từ trường và lái chùm tia theo các hướng tạo góc 90⁰, 270⁰, 112.05⁰
b) Chỉ định:
Các bệnh ung thư giai đoạn sớm như: ung thư vòm họng, bệnh Hodgkin, u
lympho ác tính không Hodgkin, ung thư cổ tử cung, ung thư tuyến tiền liệt,
ung thư phổi.
Bệnh ung thư giai đoạn muộn: ung thư di căn xương, ung thư di căn não,
tủy, ung thư cổ tử cung di căn gây chảy máu.
Các trường hợp bệnh nhân không thể phẫu thuật được do sức khỏe yếu hoặc
bệnh nhân từ chối phẫu thuật, hóa trị.
c) Ưu điểm:
- Tạo ra chùm tia bức xạ (electron, tia X) có năng lượng rất cao, chính vì vậy mà
chúng có khả năng đâm xuyên tốt và tiếp cận dễ dàng hơn với các khối u ở vị trí
sâu bên trong cơ thể
- Giảm sự gây hại và ít làm tổn thương các mô lành xung quanh khối u cũng như
các mô lành trên đường đi của tia bức xạ.
- Tiết kiệm thời gian hơn so với phương pháp xạ trị ung thư thông thường khác,
đồng thời hiệu quả điều trị ung thư được cải thiện rõ rệt.
- Máy xạ trị gia tốc an toàn vì khi tắt máy, chúng ngừng hoạt động phát tia xạ.
Trong khi đó, máy xạ trị Cobalt thông thường thì đồng vị phóng xạ vẫn tiếp tục
phát tia bức xạ, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến bệnh nhân và cả nhân viên y tế
khi thực hiện kỹ thuật này.
- Thao tác điều khiển máy đơn giản, không cần thực hiện quá nhiều lần.
d) Tác dụng phụ:
Nhức đầu.
Rụng tóc.
Cơ thể mệt mỏi, suy giảm trí nhớ.
Thay đổi da hoặc niêm mạc tại khu vực có tia xạ chiếu vào.
Các vấn đề về rối loạn tiêu hóa như: tiêu chảy, nôn và buồn nôn, khó nuốt…
VIDEO: youtube.com/watch?v=8n7nDEd2mug
- Một số thiết bị xạ trị ngoài và ứng dụng:
Loại tia Nguồn phát tia Năng lượng Chỉ định điều trị
Tia X
Bề mặt Máy phát tia X 80-150KeV Các ung thư da
Quy ước Máy phát tia X 250-300KeV nông
Siêu thể Máy gia tốc 4-25KeV Các UT lan rộng,
(Linac) các u dưới da
Các UT nằm sâu
trong cơ thể
Tia Gamma Co-60 1,17-1,33MeV UT đầu cổ, vú…
Hạt Beta Sr-90 2,3 MeV Các u sùi dạng
Sr-89 1,46 MeV nấm, UT khác ở
da, di căn xương từ
UTTL tuyến,
mộng thịt ở mắt
Chùm điện tử năng Máy gia tốc 4-20 MeV Các loại UT ở sâu,
lượng cao UT ngoài bề mặt
da
Tia Gamma Gama knife 1,17-1,33MeV UT phổi, gan,
não…
+ Bệnh nhân có chẩn đoán xác định la Basedow có thể đã qua điều trị nội khoa
bằng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp không khỏi, tái phát hoặc không thể điều trị
tiếp do dị ứng thuốc, viêm gan, giảm sinh hủy…
+ Bệnh nhân Basedow chọn điều trị I-131 ngay từ đầu
+ Bệnh nhân có độ tập trung I-131 tại tuyến giáp đủ cao
+ Bướu tuyến giáp không quá to, nếu bướu quá to gấy nuốt nghẹn, sặc, khó thở thì
nên phẫu thuật để giải phóng trước.
Chống chỉ định: