You are on page 1of 15

BÀI TẬP THẢO LUẬN DÂN SỰ LẦN 4.

A. ĐÒI ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA PHẦN 1

Câu 1: Trâu là động sản hay bất động sản? Vì sao?

Trâu là động sản vì theo Điều 107 BLDS 2015 quy định:

1. Bất động sản bao gồm:


a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.
 Như vậy, căn cứ tại Khoản 1 tại Điều này thì trâu không phải là bất động sản nên nó là
động sản.

Câu 2: Trâu có là tài sản phải đăng kí quyền sở hữu không? Tại sao?

Trâu không là tài sản phải đăng kí quyền sở hữu vì chỉ phải đăng kí quyền sở hữu đối
với tài sản là bất động sản còn đối với tài sản là động sản thì không phải đăng kí theo Khoản 2
Điều 106 BLDS 2015 “Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là động sản không phải đăng
kí, trừ trường hợp pháp luật về đăng kí tài sản có quy định khác.”

Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu
của ông Tài?

Đoạn “Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tiến Tài (BL 06, 07, 08), lời khai của các nhân
chứng là anh Phúc (BL 19), anh Chu (BL 20), anh Bảo (BL 22) và kết quả giám định con trâu
đang tranh chấp (biên bản giám định ngày 16-8-2004, biên bản xác minh của cơ quan chuyên
môn về vật nuôi ngày 17-8-2004, biên bản diễn giải biên bản kết quả giám định trâu ngày 20-8-
2004), (BL 40, 41, 41a, 42) thì có đủ cơ sở xác định con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi
mới sấn mũi lần đầu và con nghé đực khoảng 3 tháng tuổi là thuộc quyền sở hữu hợp pháp của
ông Triệu Tiến Tài.”

Câu 4: Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh có tranh
chấp trên?

Theo Điều 179 BLDS 2015 về khái niệm chiếm hữu:

1. Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản.
2. Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải
là chủ sở hữu.

 Trong hoàn cảnh tranh chấp này thì người chiếm hữu trâu là ông Dòn vì ông Dòn đang
nắm giữ, chi phối con trâu.
1
Câu 5: Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn có căn cứ pháp luật không? Vì
sao?

Ngay từ đầu việc chiếm hữu của ông Thơ là không có căn cứ pháp luật. Ông Thơ có
khai rằng đã mua một con trâu cái của ông Phùng Văn Tài nhưng trong Quyết định số
123/2006/DS-GĐT ngày 30/05/2006 của Toà án không có tài liệu chứng minh và không đề cập
đến việc này nên việc chiếm hữu của ông Thơ là hoàn toàn không có căn cứ pháp luật. Cho
nên, ông Thơ không có quyền bán lại trâu cho ông Thi và ông Thi cũng không được đổi trâu
với ông Dòn.

Căn cứ theo Khoản 3 Điều 183 BLDS năm 2005 về chiếm hữu có căn cứ pháp luật:
Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phải phù hợp với quy
định của pháp luật. Tuy rằng, ông Dòn là người được chuyển giao quyền sở hữu thông qua giao
dịch dân sự với ông Thi nhưng thực chất ông Thi cũng chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Do đó, việc chiếm hữu của ông Dòn là hoàn toàn không có căn cứ pháp luật.

Câu 6: Thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình? Nêu cơ sở pháp
lí khi trả lời.

Căn cứ theo quy định tại Điều 189 BLDS năm 2005 thì việc chiếm hữu tài sản không
phù hợp với quy định tại Điều 183 của Bộ luật này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.

Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu
mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.

 Vậy nên việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng lại ngay tình khi người chiếm
hữu không biết hoặc không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp
luật.

Câu 7: Người như trong hoàn cảnh của ông Dòn có là người chiếm hữu ngay tình không?
Vì sao?

Ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình.

Bởi xét theo hoàn cảnh của ông Dòn thì ông hoàn toàn không biết việc trao đổi trâu giữa
ông và ông Thi là không có căn cứ pháp luật. Ngay từ đầu ông Dòn không biết con trâu không
thuộc quyền sở hữu của ông Thơ, nên ông cho rằng giao dịch giữa ông Thi và ông Thơ là có
căn cứ pháp luật. Cho nên, con trâu thuộc quyền sở hữu của ông Thi trao đổi với ông là hoàn
toàn hợp pháp. Như vậy, ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình.

2
Câu 8: Thế nào là hợp đồng có đền bù và không có đền bù theo quy định về đòi tài sản trong
BLDS?

– Hợp đồng có đền bù: Là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi ích từ bên kia chuyển
giao thì phải chuyển giao lại cho bên kia một lợi ích tương ứng.1

– Hợp đồng không có đền bù: Là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi ích do bên kia
chuyển giao nhưng không phải chuyển giao lại bất kỳ lợi ích nào.2

Câu 9: Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù hay không có đền bù? Vì
sao?

- Ông Dòn có được trâu thông qua giao dịch có đền bù.

- Vì con trâu mà ông Dòn có được là do giao dịch với ông Thi, cụ thể là ông Thi đổi cho ông
Dòn lấy con trâu cái sổi. Từ đó ta có thể thấy, đây là giao dịch mà trong đó mỗi bên sau khi
thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng. Do đó đây là
một giao dịch có đền bù.

Câu 10: Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý muốn của
ông Tài không?

- Trâu có tranh chấp là bị chiếm hữu ngoài ý muốn của ông Tài.

- Vì tòa án đã xác minh và có khẳng định ông Thơ là người chiếm hữu, sử dụng tài sản không
có căn cứ pháp luật.

Câu 11: Theo Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông Dòn không? Đoạn nào
của Quyết định cho câu trả lời?

- Theo Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn.

Đoạn :“Toà án phúc thẩm nhận định con trâu mẹ và con nghé con là của ông Tài là đúng nhưng
lại cho rằng con trâu cái đang do ông Nguyễn Văn Dòn quản lý nên ông Tài phải khởi kiện đòi
ông Dòn và quyết định chỉ buộc ông Thơ phải trả lại trị giá của con nghé là 900.000đ, bác yêu
cầu của ông Tài đòi ông Thơ phải trả lại con trâu mẹ là không đúng pháp luật”.

Câu 12: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa án dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.

Trong trường hợp này, vì ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình, ông có được con
trâu thông qua giao dịch có đền bù và con trâu bị chiếm hữu ngoài ý chí của ông Tài nên ông
Tài có quyền đòi lại con trâu từ ông Dòn. Do đó, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm là có

1
Nguồn: https://luathoangphi.vn/phan-loai-hop-dong-dan-su-theo-bo-luat-dan-su-2015/
2
Nguồn: https://luathoangphi.vn/phan-loai-hop-dong-dan-su-theo-bo-luat-dan-su-2015/

3
căn cứ pháp luật nên việc Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án dân sự phúc thẩm
là chưa hợp lý.

Câu 13: Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật hiện hành có quy định
nào bảo vệ ông Tài không?

Theo Quyết định số 123, Tòa án xác định con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi mới
sấn mũi lần đầu và con nghé đực khoảng 3 tháng tuổi là thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông
Triệu Tiến Tài. Trong khi đó ông Dòn lại là người chiếm hữu ngay tình và trâu là động sản
không đăng ký quyền sở hữu. Vì thế áp dụng Điều 167 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Quyền
đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình: “Chủ sở hữu
có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình
trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không
có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng
có đền bù thì chủ sở hữ có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc
trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.”

Vì giao dịch của ông Dòn và ông Thi là giao dịch có đền bù (giao địch đổi trâu) nên theo
Điều 167 nêu trên thì chủ sở hữu là ông Tài có quyền đòi lại động sản tức con trâu đó.

Câu 14: Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ông Tài
được quyền yêu cầu ai trả giá trị con trâu? Đoạn nào của Quyết đinh cho câu trả lời?

Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ông Tài được
quyền yêu cầu ông Thơ trả giá trị con trâu.

Đoạn của Quyết định số 123/2006/DS-GĐT cho câu trả lời là:

“ Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã điều tra, xác minh, thu thập
đầy đủ các chứng cứ và xác định con trâu tranh chấp giữa ông Tài và ông Thơ và đã quyết
định buộc ông Thơ là người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật phải hoàn lại giá trị
con trâu và con nghé cho ông Tài là có căn cứ pháp luật.”

Câu 15: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao.

Hướng giải quyết trên của tòa là chưa hợp lý. Bởi vì trong phần xét thấy của Quyết định,
Tòa án chỉ dựa vào lời khai của ông Triệu Tiến Tài và một số nhân chứng khác chứ hoàn toàn
không có nhắc đến lời khai của ông Thơ mà cho rằng ông Thơ là người chiếm hữu tài sản
không có căn cứ pháp luật là không xác đáng. Theo như ông Thơ có khai là tháng 6-2002 ông
mua một con trâu cái khoảng 3,5 tuổi đã xiên mũi của ông Phùng Văn Tài. Xét thấy trong
trường hợp lời khai của ông Thơ là đúng thì có thể ông Thơ cũng là người chiếm hữu ngay tình
(không biết con trâu cái là thuộc sở hữu của ông Triệu Tiến Tài). Do đó Tòa án cần xem xét
xác minh lại con trâu có phải thực sự là ông Thơ mua lại từ ông Phùng Văn Tài hay không và
ông Thơ có biết con trâu của ông Triệu Tiến Tài không. Nếu đúng là như vậy thì ông Thơ cũng

4
là người chiếm hữu ngay tình và ông không phải bồi thường thiệt hại cho ông Triệu Tiến Tài
mà ông Phùng Văn Tài phải là người chịu trách nhiệm.

B. ĐÒI ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA PHẦN 2

Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy quyền sử dụng đất tranh chấp thuộc sử dụng hợp
pháp của các con cụ Ba và đang được ông Vĩnh chiếm hữu?

Quyết định cho thấy quyền sử dụng đất tranh chấp thuộc sử dụng hợp pháp của các con
cụ Ba và đang được ông Vĩnh chiếm hữu thể hiện ở đoạn: “Đoạn của Quyết định cho thấy
quyền sử dụng đất tranh chấp thuộc sử dụng hợp pháp của các con cụ Ba và đang được
ông Vĩnh chiếm hữu: “Năm 1995, bà Thu đã bán nhà đất này cho ông Vĩnh, hợp đồng
mua bán có công chứng. Năm 1996, ông Vĩnh tiến hành sửa chữa nhà có giấy phép. Năm
2002, vợ chồng ông La Văn Vĩnh và bà Huỳnh Thị Như Ngọc được cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, diện tích nhà 17,1m2, diện tích đất là
19,5m2. Năm 2002, các con cụ Ba là bà Nhân và ông Lai tranh chấp nhà đất với ông
Vĩnh. Ông Vĩnh và Ủy ban nhân dân phường Lê Hồng Phong cho rằng, vợ cụ Ba lấy tên
con gái là Nhân đứng tên ký bán nhà đất đang tranh chấp cho vợ chồng bà Thu, đã giao
giấy cụ Ba mua nhà của cụ Cậy cho vợ chồng bà Thu. Do ông Cung đã chết, bà Thu nay
không rõ đang sống ở đâu nên không lấy được lời khai. Tuy nhiên, các cơ quan chuyên
môn về quản lý nhà đất của Ủy ban nhân dân thành phố Quy Nhơn và ông Vĩnh chỉ cung
cấp được các giấy tờ do Khu vực 6 bán nhà đất cho vợ chồng bà Thu và giấy tờ bà Thu
bán cho ông Vĩnh, không cung cấp được giấy tờ về việc vợ cụ Ba hay bà Nhân bán nhà đất
cho Khu vực 6 và giấy tờ cụ Cậy bán nhà cho con cụ Ba. Do đó, không có căn cứ xác định
vợ cụ Ba, hoặc bà Nhân đã bán nhà đất đang tranh chấp cho Khu vực 6. Nay vợ chồng cụ
Ba đã chết thì các con của cụ Ba được thừa kế tài sản này. Nhà của cụ Ba, ông Vĩnh đã
phá đi không còn, khi ông Vĩnh phá nhà, các con cụ Ba không chứng minh được đã có
khiếu nại, nên chỉ còn đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của các con cụ Ba”
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án xác định ông Vĩnh chiếm hữu ngay tình
quyền sử dụng đất tranh chấp?

Quyết định cho thấy Tòa án xác định ông Vĩnh chiếm hữu ngay tình quyền sử dụng đất
tranh chấp được thể hiện ở đoạn: “ Khi ông Vĩnh mua nhà đất của vợ chồng bà Thu thì nhà đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, nên ông Vĩnh mua nhà đất này là hợp pháp. Nay ông
Vĩnh cũng được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở, nên xác định
ông Vĩnh là người mua bán tài sản tranh chấp ngay tình.”.

Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa xác định ông Vĩnh là người ngay tình ?

Căn cứ vào Điều 180, BLDS 2015 định nghĩa như sau: “Chiếm hữu ngay tình là việc
chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang
chiếm hữu.”. Ta thấy được ông Vĩnh mua nhà đất của bà Thu đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu, nên ông Vĩnh mua đất này là hoàn toàn hợp pháp, sau đó ông lại được cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở. Trên cơ sở đó ông Vĩnh hoàn toàn đầy

5
đủ căn cứ để tin rằng mình là người có quyền đối với tài sản đó. Chính vậy, ông Vĩnh là người
ngay tình. Vì vậy em hoàn toàn đồng ý với việc Tòa án xác định ông Vĩnh là người ngay tình.
Câu 4: Trên cơ sở các quy định hiện hành, ông Vĩnh có phải hoàn trả quyền sử dụng
đất tranh chấp cho các con của cụ Ba không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý.
Trên cơ sở của pháp luận hiện hành thì ông Vĩnh hoàn toàn không phải hoàn trả quyền
sử dụng đất tranh chấp cho các con của cụ Ba.
Theo điều Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015 qui định “Trường hợp giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển
giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc
đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình
nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với
người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản
nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.”.
Ông Vĩnh là người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp này; thứ nhất, ông Vĩnh thực
hiện hợp đồng mua bán hoàn toàn hợp pháp; thứ hai, ông Vĩnh đã được cấp cấp giấy chững
nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở. Bởi vậy nên ông Vĩnh không cần phải hoàn trả
quyền sử dụng đất tranh chấp cho các con của cụ Ba.
Câu 5: Toà án tối cao đã có hướng giải quyết giúp con cụ Ba như thế nào và hướng giải
quyết này đã được quy định trong văn bản chưa?
Tòa án đã có hướng giải quyết bảo vệ các con cụ Ba đó là hủy bỏ toàn bộ các bản án sơ
thẩm và phúc thẩm bác yêu cầu của nguyên đơn, xác định ông Vĩnh là người mua bán tài sản
ngay tình và yêu cầu bồi thường thiệt hại do việc bán nhà trái pháp luật cho nguyên đơn
Hướng giải quyết này chưa được quy định trong văn bản. Bởi vì Tòa án chưa xác
đinh được chính xác ai là người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho các con cụ Ba và cần
phải xác minh vấn đề này. Ông Vĩnh là người chiếm hữu ngay tình, tức là việc mua nhà số 2
Nguyễn Thái Học của ông là do không biết và không thể biết việc chiếm hữu của ông là
không có căn cứ pháp luật nên Tòa án cần xác minh ông Sơn hay ông Đạo là người đã bán
căn nhà đó và số tiền có phải dùng để xây dựng trường mẫu giáo không, nếu có hiện ai đang
quản lí.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết bảo vệ các con của cụ Ba nêu trên.
Theo em, hướng giải quyết bảo vệ các con của cụ Ba nêu trên là hợp lí.Trên thực tế tuy
là không có giấy tờ cụ Cậy bán nhà cho cụ Ba nhưng cụ Cậy và các đương sự thừa nhận
rằng năm 1973 cụ Cậy bán nhà cho cụ Ba và không có căn cứ xác định vợ cụ Ba hay bà
Nhân bán nhà đất đang tranh chấp cho Khu vực 6 nên nhà đất đang tranh chấp thuộc sở hữu
của cụ Ba, nay cụ Ba đã chết thì các con cụ Ba là những người được thừa kế tài sản này.

6
C. LẤN CHIẾM TÀI SẢN LIỀN KỀ

Câu 1: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền sử
dụng của ông Trê, bà Thi và phần lấn cụ thể là bao nhiêu?

- Đoạn của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông
Trê, bà Thi:

“Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8m2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất trống
cho ông Trê và bà Thi, còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà (52,2m 2)
thì giao ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà
Thi là hợp tình, hợp lý.

Tuy nhiên, ngoài diện tích 52,2m2 nếu trên, căn nhà của ông Hậu còn có hai máng xối
đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trê và bà Thi có diện tích 10,71m 2
chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xem xét buộc ông Hậu phải tháo dỡ
hoặc phải thanh toán cho giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là chưa đảm bảo
quyền lợi hợp pháp của ông Trê và bà Thi.”

- Phần lấn cụ thể là:

+ 132,8m2 đất trống

+ 52,2m2 đất đã xây dựng nhà

+ 10,71m2 diện tích hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trê.

+ 18,57m2 diện tích đất đã được xây dựng căn nhà phụ.

Như vậy, tổng phần diện tích mà ông Hậu đã lấn chiếm là 214,28m2.

Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không
gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên?

- Đoạn của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không gian, mặt đất,
lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên:

“Khi sửa chữa lại nhà gia đình ông Hòa có làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông và
chôn dưới đất một ống thoát nước nằm ngoài phía tường nhà. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa
án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định gia đình ông Hòa làm 4 ô văng cửa sổ, một
máng bê tông chờm qua phần đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên nên
quyết định buộc gia đình ông Hòa phải tháo dỡ là có căn cứ.

Tuy nhiên, dưới lòng đất sát tường nhà ông Hòa còn ống nước do gia đình ông Hòa
chôn, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không buộc gia đình ông Hòa tháo
dỡ là không đúng, không đảm bảo được quyền lợi của gia đình ông Trụ.”

7
Câu 3: BLDS có quy định nào điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian thuộc
quyền sử dụng của người khác không?

- Căn cứ theo Điều 265, BLDS 2005 có quy định về việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian
thuộc quyền sử dụng của người khác:

“1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận của các chủ
sở hữu hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyển.

Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc ranh giới đã tồn tại từ ba
mươi năm trở lên mà không có tranh chấp.

2. Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng
đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền
kề của người khác.

Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất
thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây
vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.

3. Trong trường hợp ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng thì người sử dụng
đất có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung, không được lấn, chiếm, thay đổi mốc
giới ngăn cách.”

- Căn cứ theo Điều 175, BLDS 2015 có quy định về việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian
thuộc quyền sử dụng của người khác:

“1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thoả thuận hoặc theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ
30 năm trở lên mà không có tranh chấp.

Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp ranh giới là
kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới
chung.

2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ
ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm ảnh
hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.

Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất
thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây

8
vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.”

Câu 4: Ở nước ngoài, việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế nào?

- Ở nước ngoài, cụ thể là pháp luật nước Pháp với Bộ luật dân sự Napoleon cũng có quy định
về việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian thuộc quyền sử dụng của người khác. Ví dụ như
điều 675, 671, 673, 681.

+ Điều 675: “Chủ sở hữu bất động sản liền kề không được trổ cửa sổ hoặc lỗ cửa vào
bức tường chung dù bằng bất cứu cách nào, kể cả khi có lắp kính mờ, trừ trường hợp được chủ
sở hữu bất động sản liền kề bên kia đồng ý.”

+ Điều 671: “Chỉ được phép trồng những cây to, cây nhỡ, cây nhỏ gần giới hạn đất láng
giềng theo khoảng cách được xác định theo những quy định cụ thể hiện hành hoặc những thông
lệ được thừa nhận. Nếu không có những quy định hoặc thông lệ thì cây mọc cao trên 2 mét
phải trồng cách đường giới hạn phân cách hai bất động sản là 2 mét, đối với các cây trồng
khác là nửa mét.”

+ Điều 673: “Chủ sở hữu bất động sản có quyền buộc bên hàng xóm phải cắt bỏ các
cành cây mọc vươn sang đất của mình. Nếu hoa quả ở các cành cây tự nhiên rụng xuống thì
chủ sở hữu đất bị cành cây vươn sang được quyền hưởng. Nếu rễ cây hoặc cành nhỏ mọc vươn
sang đất người khác thì người đó có quyền cắt những rễ và cành cây nhỏ đó đến giới hạn
đường phân chia của hai bên. Quyền được cắt rễ cây và cành nhỏ hoặc quyền được yêu cầu
bên hàng xóm cắt các rễ cây, cành cây của các cây to, cây nhỡ, cây nhỏ không thể bị thời hiệu
tiêu diệt.”

+ Điều 681: “Chủ sở hữu bất động sản phải lắp đặt mái nhà sao cho nước mưa chảy
vào đất nhà mình hoặc đường công cộng, không được để nước mưa chảy vào bên hàng xóm.”3

Câu 5: Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng buộc gia đình ông Hòa tháo dỡ tài sản thuộc phần lấn sang không gian, mặt đất và
lòng đất của gia đình ông Trụ, bà Nguyên?

Đoạn:

“Khi sửa chữa lại nhà gia đình ông Hòa có làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông và
chôn dưới đất một ống thoáng nước nằm ngoài phía tường nhà. Quá trình giải quyết vụ án,
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định gia đình ông Hòa làm 4 ô văng cửa sổ,
một máng bê tông chờm qua phần đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên
nên quyết định buộc gia đình ông Hòa phải tháo dỡ là có căn cứ.

Tuy nhiên, dưới lòng đất sát tường nhà ông Hòa còn ống nước do gia đình ông Hòa
chôn, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không buộc gia đình ông Hòa phải
tháo dỡ là không đúng, không đảm bảo quyền lợi của gia đình ông Trụ”.
3
Bộ luật dân sự Napoleon.
9
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao.

Hướng giải quyết của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao như vậy là hợp lý. Vì trong
lúc ông Trụ đi nơi khác làm ăn vợ chồng ông Hòa đã lấn chiếm phần đất không đúng theo quy
định trong giấy chứng nhận sử dụng đất và không được sự đồng ý của chủ bất động sản liền kề
là ông Trụ, bà Nguyên nên Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu ông Hòa phải tháo dỡ các công
trình phụ là hợp lý căn cứ theo Điều 265, Điều 266 BLDS 2005 (Điều 175, Điều 176 BLDS
2015). Bên cạnh đó, dưới lòng đất sát tường nhà ông Hòa còn ống nước do gia đình ông Hòa
chôn, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không buộc gia đình ông Hòa phải
tháo dỡ là không đúng, điều này không đảm bảo quyền lợi của gia đình ông Trụ. Vì vậy, Tòa án
tối cao đã hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm giao lại hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã
Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm lại là hoàn toàn hợp lý.

Câu 7: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Hậu tháo dỡ nhà
đã được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2m2)?

Đoạn: “Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8m2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất
trống cho ông Trê và bà Thi, còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà
(52,2m2) thì giao ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông
Trê và bà Thi là hợp tình, hợp lý”.

Câu 8: Ông Trê, bà Thi có biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên không?

Ông Trê, bà Thi có biết việc ông Hậu xây nhà và không hề phản đối.

Theo lời khai của ông Hậu thì ông mua phần đất này của anh Kiệt tuy chỉ lập giấy tay,
không ký giáp ranh nhưng anh Kiệt (chủ đất) đã chỉ ranh giới cho ông vì vậy lúc ông xây nhà
ông Trê không có ý kiến gì.

Câu 9: Nếu ông Trê, bà Thi có biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên thì ông Hậu có
phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trê, bà Thi không? Vì sao?

Theo Điều 259 BLDS 2005: “Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình,
chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp
luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Toà
án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.”
Nếu ông Trê, bà Thi có biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên thì ông Hậu phải
tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trê, bà Thi.

Câu 10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến phần đất
ông Hậu lấn chiếm và xây nhà trên.

Theo Quyết định số 23/2006/DS-GĐT đề cập thì:

10
+ Theo giấy biên nhận giữa ông Hậu với anh Kiệt thì diện tích đất ông Hậu mua từ anh
Kiệt không nêu vị trí cũng như tứ cận, mốc giới cụ thể, cũng không có xác nhận của chủ
đất liền kề. Hơn nữa ông Hậu nhận biết ranh giới chỉ dựa vào sự chỉ dẫn của anh Kiệt
mà không có căn cứ trên giấy tờ nhà đất.
+ Trong khi đó năm 1994 ông Trê đã được Ủy ban nhân dân huyện CN cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (vợ ông Trê đứng tên).
Như vậy, việc Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả đất đã lấn chiếm là đất trống và
thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho phần đất lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà cho ông
Trê và bà Thi là phù hợp, đảm bảo được quyền lợi cho cả hai bên.
Tuy nhiên, Tòa án còn sơ xuất trong việc giải quyết phần căn nhà phụ diện tích 18,57m2 và
hai máng xối đúc bê tông có diện tích 10,71m2 được xây dựng trên diện tích đất mà Tòa án các
cấp buộc ông Hậu trả lại cho ông Trê.
Câu 11: Theo Tòa án, phần đất ông Hậu xây dựng không phải hoàn trả cho ông Trê, bà Thi
được xử lý như thế nào? Đoạn nào của Quyết định số 23 cho câu trả lời?

Theo Tòa án, phần đất ông Hậu xây dựng không phải hoàn trả cho ông Trê, bà Thi được
xử lý: Ông Hậu phải trả giá trị quyền sử dụng đất 52,2m2 cho ông Trê và bà Thi. Sau đó ông
Hậu được sử dụng 52,2m2 đất của căn nhà ông đã xây cất.
Đoạn của Quyết định số 23 cho câu trả lời: “còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm
nhưng đã xây dựng nhà (52,2m2) thì giao cho ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị
quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi là hợp tình, hợp lý.”
Câu 12: Đã có quyết định nào của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết như Quyết
định số 23 liên quan đến đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà không? Nêu rõ Quyết định mà
anh/chị biết.

- Đã có quyết định của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết như Quyết định số 23 liên
quan đến đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà.
- Quyết định giám đốc thẩm số 02/2006/DS-GĐT ngày 21-02-2006 về vụ án “tranh chấp về
bồi thường thiệt hại” :
“Căn cứ vào văn tự đoạn mãi nhà ngày 30-12-1973 giữa ông Vui và bà Anh thì căn nhà
bà Anh có chiều rộng mặt tiền là 7,4m và căn cứ vào giấy phép xây dựng số 51/GP.SXD
ngày 08-2-1996 của Sở Xây dựng tỉnh Đăk Lăk thì gia đình bà Anh được xây nhà có chiều
rộng mặt tiền là 7,4m nhưng theo biên bản đo đạc của Toà án nhân dân tỉnh Đăk Lăk thì
thực tế bà Anh đã xây dựng chiều rộng mặt tiền là 7,63m, sai với giấy phép xây dựng, vượt
quá diện tích đất mà gia đình bà Anh được quyền sử dụng là 23cm. Thực tế, bà Anh đã xây
kiềng móng nằm đè lên 20cm móng của nhà ông Dũng. Bà Anh cho rằng khi xây dựng đã
thoả thuận miệng với ông Dũng để bà Anh được xây sát tường nhà ông Dũng nhưng ông
Dũng không thừa nhận và bà Anh cũng không có chứng cứ để chứng minh vấn đề này.

11
Về nguyên tắc, bà Anh đã lấn chiếm đất thuộc quyền sử dụng của ông Dũng thì bà Anh
phải tháo dỡ công trình để trả lại đất cho ông Dũng. Tuy nhiên, khi gia đình bà Anh xây
dựng sát tường nhà ông Dũng, làm kiềng trên móng nhà ông Dũng, ông Dũng không phản
đối trong suốt quá trình từ khi bà Anh khởi công xây dựng (tháng 2-1996) đến khi hoàn
thành (tháng 6-1996).
Do việc đã xây dựng hoàn thiện nhà cao tầng, nếu buộc bà Anh phải dỡ bỏ và thu hẹp
lại công trình sẽ gây thiệt hại rất lớn cho gia đình bà Anh. Xét diễn biến thực tế như trên,
Hội đồng Thẩm phán nhất trí với quan điểm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao tại kháng nghị là Toà án cấp phúc thẩm không buộc bà Anh phải tháo dỡ phần tường
nhà đè lên phía trên móng nhà ông Dũng mà chỉ buộc bồi thường bằng tiền là hợp tình, hợp
lý.
Do việc bà Anh xây sát tường nhà ông Dũng, gây thiệt hại cho ông Dũng về phần không
gian trên đất ông Dũng không sử dụng được có chiều rộng 20cm tính theo móng nhà ông
Dũng nên bà Anh phải bồi thường cho ông Dũng phần thiệt hại này. Phần thiệt hại này
cũng phải được xác định căn cứ vào giá trị quyền sử dụng đất tại thị trường địa phương.
Toà án cấp phúc thẩm căn cứ vào khung giá đất tại quyết định số2920/QĐ-UB ngày 10-12-
1998 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đăk Lăk với giá 1.720.000 đồng/m 2 trong khi không có
chứng cứ chứng minh khung giá của Uỷ ban nhân dân tỉnh phù hợp với giá thị trường là
chưa đảm bảo đúng quyền lợi của ông Dũng theo quy định của pháp luật. Do đó, cần phải
giải quyết phúc thẩm lại phần này.”
Câu 13: Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán trong
Quyết định số 23 được bình luận ở đây?
Theo hồ sơ bản án: “Biên nhận đề ngày 29-03-1994 giữa ông Hậu và anh Kiệt không có
xác nhận của cơ quan có thẩm quyền, diện tích đất ông Hậu mua từ anh Kiệt không nêu vị trí
cũng như tứ cận, mốc giới cụ thể, cũng không có xác nhận của các chủ đất liền kề. Trong khi
đó, gia đình ông Trê đã quản lý, sử dụng đất tranh chấp từ trước khi có việc sang nhượng giữa
ông Hậu với anh Kiệt và năm 1994 ông Trê đã được Ủy ban nhân dân huyện CN cấp giấy
chứng nhận quyền sủ dụng đất.”

Hội đồng xét xử nhận định:

- Thứ nhất, việc Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8 m 2 đất đã lấn chiếm và
thanh toán giá trị quyền sử dụng đất phần đất ông Hậu đã xây nhà cho ông Trê và bà Thi
là hợp tình, hợp lý.
- Thứ hai, ngoài diện tích nêu trên thì ông Hậu còn có hai máng xối đúc bê tông lấn chiếm
khoảng không trên phần đất của ông Trê và bà Thi nhưng chưa được Tòa sơ thẩm và
Tòa phúc thẩm xem xét là chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho chủ thể.
- Thứ ba, ông Hậu còn có một căn nhà phụ xây dựng trên diện tích đất mà Tòa buộc ông
Hậu trả cho ông Trê nhưng Tòa án vẫn chưa xem xét giải quyết.
 Vì những sai sót trên của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm thì Hội đồng xét xử
đã quyết định hủy bản án và giao hồ sơ vụ án lại cho Tòa án nhân dân tỉnh CM giải quyết
lại theo đúng quy định của pháp luật.

12
- Vậy hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý, đảm bảo quyền lợi cho chủ thể.
- Cơ sở pháp lý:
Điều 259 BLDS 2005:

“Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải
chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Toà án,
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.”

Khoản 2 Điều 265 BLDS 2005:

“Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều
thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng
đất liền kề của người khác.

Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất
thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây
vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.”

Câu 14: Đối với phần chiếm không gian 10,71m 2 và căn nhà phụ có diện tích 18,57m 2
trên đất lấn chiếm, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm có buộc tháo dỡ không?
Đối với phần chiếm không gian 10,71m2 và căn nhà phụ có diện tích 18,57m2 trên đất lấn
chiếm, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm không buộc tháo dỡ.
Cụ thể, trong bản án có nêu : “ Tuy nhiên, ngoài diện tích 52,2m 2 nêu trên, căn nhà của
ông Hậu còn có hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất ông Trê và bà Thi
có diện tích 10,71m2 chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xem xét buộc
ông Hậu phải tháo dỡ hoặc phải thanh toán giá trị quyền sử dụng dất cho ông Trê và bà Thi là
chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của ông Trê và bà Thi.” và đoạn “ Mặt khác, theo báo cáo
của Cơ quan Thi hành án và theo khiếu nại của ông Trê, thì ngoài căn nhà nằm trên diện tích
52,2m2 Tòa án các cấp giao cho ông Hậu sử dụng, còn có một căn nhà phụ có diện tích
18,57m2 của ông Hậu xây dựng trên diện tích đất mà Tòa án các cấp buộc ông Hậu trả lại cho
ông Trê, bà Thi nhưng Tòa án các cấp cũng chưa xem xét giải quyết, gây khó khăn cho việc thi
hành án.”.

13
Câu 15: Theo anh/chị thì nên xử lý phần lấn chiếm không gian 10,71 m 2 và căn nhà phụ
trên như thế nào?
Về phần lấn chiếm không gian 10,71m2 và căn nhà phụ có thể có 2 hướng giải quyết như
sau.Hướng giải quyết thứ nhất, tôn trọng kết quả tự thương lượng của 2 bên nếu như nó không
trái pháp luật và chuẩn mực xã hội.
Hướng giải quyết thứ 2: Áp dụng khoản 2 điều 265 BLDS 2005: “ Người có quyền sử
dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn
viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và
không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền kề của người khác.
Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc
quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá
ranh giới thì phải xén rễ, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Đối với phần lấn chiếm không gian 10,71m 2, yêu cầu ông Hậu dỡ bỏ, trả lại khoảng không
gian đã lấn chiếm cho ông Trê, bà Thi hoặc thanh toán giá trị sử dụng đất cho ông Trê. Đối với
căn nhà phụ, có thể giải quyết như đối với căn nhà chính. Tức là giao phần đất có căn nhà phụ
cho ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi.
Câu 16: Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không gian ở
Việt Nam hiện nay.
Trên thực tế, hiện nay ở Việt Nam vấn đề lấn chiếm quyền sử dụng đất và không gian
xảy ra khá nhiều. Đặc biệt là những năm gần đây tình hình tranh chấp đất đai, không gian ngày
càng gia tăng về số lượng và phức tạp về tính chất. Theo quy định của pháp luật, chủ sử dụng
đất buộc phải thực hiện nghĩa vụ tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản liền kề, bao gồm cả
việc sử dụng không gian phía trên thửa đất. Hơn nữa, trong quá trình sử dụng đất, pháp luật
cấm chủ sử dụng lấn chiếm diện tích, lấn chiếm không gian đang được quản lý, sử dụng hợp
pháp của cá nhân khác. Nhưng thực tế vẫn có nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan dẫn
đến tình trạng trên. Và trong cách xử lý tranh chấp thì vẫn còn nhiều bất cập, mâu thuẫn. Khâu
giải quyết tranh chấp thường diễn ra chậm, không dứt điểm, không triệt để, cho ra kết quả
không đảm bảo được lợi ích cho 2 bên nên thường dẫn đến tình trạng kháng cáo làm cho tranh
chấp trở nên phức tạp hơn. Pháp luật Việt Nam cần có những quy định rõ ràng, chặt chẽ hơn,
bên cạnh đó cần có những văn bản hướng dẫn thi hành để quá trình xử lí vấn đề lấn chiếm
quyền sử dụng đất, không gian được thực hiện dễ dàng hơn.

Câu 17: Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 có còn phù hợp với
BLDS 2015 không? Vì sao?

Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 còn phù hợp với BLDS 2015.
BLDS 2015 có quy định về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản (Điều 163);
quyền yêu cầu chấm dứt các hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản (Điều 169) và quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều
170).

14
15

You might also like