You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH

BÀI TẬP THÁNG THỨ TƯ

MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ
THỪA KẾ
GIẢNG VIÊN: LÊ ĐẶNG PHƯƠNG UYÊN
LỚP: HC45B1
NHÓM: 7
THÀNH VIÊN:
STT HỌ TÊN MSSV
1 LÊ HOÀNG NHI 2053801014184
2 ĐẶNG TRẦN KHÁNH NHƯ (nhóm trưởng) 2053801014193
3 NGUYỄN VIỆT TÂN 2053801014234
4 LÊ DUY TẠO 2053801014235
5 HỒ TRẦN ANH THƯ 2053801014255
6 NGUYỄN THỊ ANH THƯ 2053801014259

TP. HỒ CHÍ MINH THÁNG 4 NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN 1: ĐÒI ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA
PHẦN 2: ĐÒI BẤT ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI TỨ BA

PHẦN 3: LẤN CHIẾM TÀI SẢN LIỀN KỀ


I – ĐÒI ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA
Tóm tắt quyết định:

Tóm tắt quyết định số 123/2006/DS-GĐT Ngày 30/05/2006 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao: Nguyên đơn là ông Trệu Tiến Tài và bị đơn là ông Hà Văn Thơ.
Ngày 3/5/2004, ông Triệu Tiến Tài yêu cầu Tòa án buộc ông Hà Văn Thơ trả lại hai mẹ
con con trâu cho ông, nhưng ông Hà Văn Thơ cho rằng hai con trâu này là của mình và
con trâu mẹ đang do ông Dòn chiếm giữ. Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn đã xét sử sơ
thẩm vụ án và Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã xử phúc thẩm lại do ông Hà Văn Thơ
kháng cáo không đồng ý. Do sự khiếu nại của ông Hà Văn Thơ là tòa phúc thẩm chưa
giải quyết dứt điểm. Ngày 30/5/2006, tại phiên xét xử giám đốc thẩm, tòa án nhân dân
tối cao đã chấp nhận kháng nghị của Chánh tòa án nhân dân tối cao. Quyết định hủy
bản án dân sự phúc thẩm số 25/DSPT ngày 22/10/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào
Cai giải quyết chanh chấp quyền sở hữu tài sản giữa nguyên đơn là ông Triệu Tiến Tài
với bị đơn là ông Hà Văn Thơ, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét
xử phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Câu 1: Trâu là động sản hay bất động sản? Vì sao?

Trả lời: Theo Điều 107 BLDS 2015:

1. Bất động sản bao gồm:


a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật;
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.
Bất động sản có tính chất đặc thù là không thể di dời. Dựa theo khái niệm bất động sản
trong BLDS 2015 và trâu là tài sản có thể di dời dược do đó trâu không phải là bất
động sản. Vậy căn cứ theo Khoản 2 Điều 107 BLDS 2015 trâu là động sản.
Câu 2: Trâu có là tài sản phải đăng kí quyền sở hữu không? Vì sao?
- Khoản 2 Điều 106 BLSD 2015: “Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là động
sản không phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật về đăng ký tài sản có quy định
khác.” 
=> Như vậy, trâu là động sản nên quyền sở hữu đối với trâu không phải đăng kí.
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu
của ông Tài?
Trả lời:
Đoạn cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của ông Tài.
“Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tấn Tài (BL 06, 07, 08), lời khai của các nhân
chứng là anh Phúc (BL 19), anh Chu (BL 20), anh Bảo (BL 22) và kết quả giám định
con trâu đang tranh chấp (biên bản giám định ngày 16/8/2004, biên bản xác minh của
cơ quan chuyên môn về vật nuôi ngày 17/8/2004, bản diễn giải biên bản kết quả giám
định trâu 20/8/2004) thì có đủ cơ sở xác định con trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi
mới sấn mũi lần đầu và con nghé đực khoảng 3 tháng tuổi là thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của ông Triệu Tấn Tài”
Câu 4: Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh
có tranh chấp trên?
Theo Điều 179 BLDS 2015 về khái niệm chiếm hữu:
1. Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản.
2. Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải
là chủ sở hữu. Việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ
xác lập quyền sở hữu, trừ trường hợp quy định tại các điều 228, 229, 230, 231, 232,
233 và 236 của Bộ luật này.
Trong trường hợp này thì ông Dòn là người chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh có tranh
chấp.
Câu 5: Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn có căn cứ pháp luật
không? Vì sao?
- Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn là không có căn cứ pháp luật. Bởi
vì:
+ Thứ nhất, ngay từ đầu, việc ông Thơ chiếm hữu nghé và trâu mẹ là không có căn cứ
pháp luật. Ông Thơ đã khai rằng mua trâu từ ông Phùng Văn Tài nhưng ông không
cung cấp đủ tài liệu chứng minh. Sau đó, ông Thơ lại đổi cho ông Dòn nên không đủ
căn cứ để ông Dòn chiếm hữu.
+ Thứ hai, căn cứ vào kết quả giám định của con trâu đang tranh chấp theo biên bản
giám định ngày 16/8/2004, biên bản xác minh của cơ quan chuyên môn về vật nuôi
ngày 17/8/2004, biên bản diễn giải biên bản kết quả giám định trâu ngày 20/8/2004 thì
Tòa án có đầy đủ cơ sở để xác định trâu là thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Triệu
Tiến Tài. Vì thế, ông Thơ không có quyền chiếm hữu do không thỏa các điều kiện của
điều 165 của BLDS 2015:
“1. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau
đây:
a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;
c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với
quy định của pháp luật;
d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở
hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với
điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với
điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
e) Trường hợp khác do pháp luật quy định.
2. Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là chiếm
hữu không có căn cứ pháp luật.”
=> Như vậy, việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn không thuộc trường
hợp nào trong luật định nêu trên nên việc chiếm hữu này là không có căn cứ pháp luật.
Câu 6: Thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Điều 165 BLDS 2015:

“1. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau
đây:
a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;
c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với
quy định của pháp luật;
d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở
hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với
điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với
điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
e) Trường hợp khác do pháp luật quy định.
2. Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là chiếm
hữu không có căn cứ pháp luật.”
Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Điều 165 BLDS 2015 là
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm
hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ
pháp luật.
Câu 7: Người như hoàn cảnh của ông Dòn có là chiếm hữu ngay tình không? Vì sao?

- Ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình.

- Xét thấy: Vì con trâu không thuộc sở hữu của ông Thơ nên việc ông Thơ bán con trâu
cho ông Thi là không có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, từ đầu đến cuối ông Dòn thực
chất không biết (không thể biết) việc trao đổi con trâu giữa ông Thi và mình là không
có căn cứ pháp luật. Vì giao dịch đã trải qua nhiều giai đoạn, từ giao dịch của ông Thơ
với ông Thi, sau đó ông Thi trao đổi con trâu với ông Dòn, có thể ngay từ đầu ông đã
không biết con trâu không thuộc quyền sở hữu của ông Thơ, nên ông cho rằng giao
dịch của ông Thi với ông Thơ là có căn cứ pháp luật, nên con trâu thuộc quyền sở hữu
của ông Thi trao đối với ông là hoàn toàn hợp pháp. Vậy, ông Dòn là người chiếm hữu
ngay tình.

8. Thế nào là hợp đồng có đền bù và không có đền bù theo quy định về đòi tài sản
trong BLDS?
- Điều 166 BLDS 2015:
“1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người
chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật.
2. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có
quyền khác đối với tài sản đó.”
- Điều 167 BLDS 2015: “Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay
tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có
quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở
hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp
khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.”
- Điều 168 BLDS 2015: “Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở
hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 133 của Bộ luật này.”
- Hợp đồng có đền bù: là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi ích từ bên kia
chuyển giao thì phải chuyển giao lại cho bên kia một lợi ích tương ứng.
- Hợp đồng không có đền bù: là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi ích do
bên kia chuyển giao nhưng không phải chuyển giao lại bất kỳ lợi ích nào.
Câu 9: Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù hay không có
đền bù? Vì sao?

- Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù.

- Vì con trâu mà ông Dòn có được là do giao dịch với ông Thi, cụ thể là do ông Thi đổi
cho ông Dòn lấy con trâu cái sổi. Từ đó ta có thể thấy, đây là giao dịch mà mỗi bên sau
đó khi thực hiện cho bên kia một lợi ích thì sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương
ứng. Do vậy, đây là hợp đồng có đền bù.

Câu 10: Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý
trí của ông Tài không ?

- Trâu có tranh chấp là bị chiếm hữu ngoài ý chí của ông Tài.

- Vì Tòa án đã xác minh và khẳng định ông Thơ là người chiếm hữu, sử dụng tài sản
không có pháp luật.

Câu 11: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông
Dòn không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?

- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn.

- Đoạn của quyết định cho câu trả lời: “Tòa án phúc thẩm nhận định con trâu mẹ và
con nghé là của ông Tài là đúng, nhưng chỉ buộc ông Thơ phải trả lại cho ông Tài giá
trị con nghé mà ông Thơ mổ thịt là 900.000đ và bác yêu cầu của ông Tài đòi ông Thơ
trả lại con trâu mẹ vì cho rằng ông Dòn đang là người chiếm giữ con trâu nên ông Tài
phải khởi kiện đòi ông Dòn là sai.

Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao: Hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là
hợp lý, đúng theo quy định của pháp luật. Đảm bảo quyền lợi của chủ sở hữu là ông
Tài và người chiếm hữu ngay tình là ông Dòn trong vụ tranh chấp trâu nêu trên.

Câu 13: Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật hiện hành có
quy định bảo vệ ông Tài không?
- Theo điều 256 BDS 2005 quy định về quyền đòi tài sản: “Chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng tài sản, người được lợi về
tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm
hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 247 của Bộ luật này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của
người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng điều 257, điều 258 của Bộ luật này.

- Vì ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình và trâu là động sản không đăng kí quyền sở
hữu nên sẽ áp dụng Điều 257, BLDS 2005 quy định về quyền đòi lại động sản không
phải đăng kí quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình: “Chủ sở hữu có quyền đòi lại
động sản không phải đăng kí quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường
hợp người chiếm hữu ngay tình này có được động sản thông qua hợp đồng không đền
bù đối với người không có quyền định đoạt tài sản; Trong trường hợp hợp đồng này là
hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy
cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.

- Theo quyết định của Tòa án thì ông Tài là người chủ sở hữu, chiếm hữu hợp pháp đối
với con trâu. Còn ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình đối với con trâu đó. Vì giao
dịch giữa ông Dòn với ông Thi để có được con trâu là giao dịch có đền bù, cho nên
theo Điều 257 thì chủ sở hữu là ông Tài có quyền đòi lại động sản (con trâu) đó.

Câu 14: Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì tòa án đã theo hướng
ông Tài được quyền yêu cầu ai trả giá trị con trâu? Đoạn nào của Quyết định cho
câu trả lời?

- Khi ông Tài không đòi được con trâu từ ông Dòn, Tòa án đã theo hướng ông Tài được
quyền yêu cầu ông Thơ trả giá trị con trâu.

- Đoạn của quyết định cho câu trả lời là;” Trong quá trình giải quyết vụ án, tòa án đã
điều tra, xác minh thu thập đầy đủ các chứng cứ và xác định con trâu tranh chấp giữa
ông Tài và ông Thơ và đã quyết định buộc ông Thơ là người chiếm hữu tài sản không
có căn cứ pháp luật phải hòa trả lại giá trị con trâu và con nghé cho ông Tài là có căn
cứ pháp luật”.

Câu 15: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.

- Hướng giải quyết trên của Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý. Bản án đã
giải quyết việc hoàn trả lại giá trị con trâu cho phù hợp với giá trị và đảm bảo quyền lợi
của hai bên đương sự.

II - ĐÒI BẤT ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA


Tóm tắt quyết định: Tóm tắt quyết định số 07/2018/DS-GĐT ngày 09/05/2018
của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao: Bà Nguyễn Thanh T nhờ bà
Trần Thị X đứng tên hộ thửa 73 tờ bản đồ số 27 tại số 46 (số cũ 2/15) đường T,
thành phố B, tỉnh B. Bà X đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà trên.
Ông Nguyễn XV (chồng bà X) giới thiệu cho bà Nguyễn Thị N về ở ở có căn
nhà nằm trên khuôn viên đất trống không ai sử dụng, bà N cải tạo đất trồng và
trồng cây tại đó. Bà X phát hiện bà Nguyễn Thị N vào ở, bà N đã đòi lại. Sau đó
đã khởi kiện bà N. Bà N không chịu trả lại nhà vì Bà X không phải chủ sử dụng
hợp pháp. Theo bản án số 123/2009/DSPT ngày 23/10/2009 của Toà án nhân
dân tỉnh B. Bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Và đã chuyển
nhượng một phần đất cho vợ chồng ông Nguyễn Văn M, bà Trần Thị Q phần còn
lại bà cho con gái là chị Nguyễn Vi L. Sau khi bản án có hiệu lực chị L đã
chuyển nhượng cho vợ chồng ông Nguyễn Văn M bà Trần Thị Q diện tích 323,2
m2. Vụ án khởi kiện giữa nguyên đơn là bà Trần Thị X và bị đơn là Nguyễn Thị
N về về tranh chấp quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất cùng với những người
thừa kế, quyền và nghĩa vụ của những người liên quan. Theo quyết định của
giám đốc thẩm để giao hồ sơ vụ án cho tòa án nhân dân tỉnh B xét xử sơ thẩm lại
theo đúng quy định của pháp luật.

Câu 1: Đoạn nào của quyết định giám đốc thẩm cho thấy quyền sử dụng đất
có tranh chấp thuộc bà X và đã được bà N chuyển giao cho người thứ ba
ngay tình?

Trả lời: Đoạn “tại quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 73/2017/KN-DS
ngày 25/9/2017, Chánh án tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự
phúc thẩm số 91/2016/DS-PT ngày 06 và 09/5/2016 của tòa án nhân dân cấp cao
tại thành phố Hồ Chí Minh; Đề nghị hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối
cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án dân sự phúc thẩm như trên và
hủy bản án dân sự sơ thẩm số 07/2015/DS-ST ngày 24/9/2015 của Toà án nhân
dân tỉnh B; giao hồ sơ vụ án cho tòa án nhân dân tỉnh B xét xử sơ thẩm lại theo
đúng quy định của pháp luật”.

Câu 2: theo quy định (trong BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015) chủ sở
hữu bất động sản được bảo vệ như thế nào khi tài sản của họ được chuyển
giao cho người thứ ba ngay tình.

Trả lời :
- Theo khoản 2 điều 138 BLDS năm 2005: "Trong trường hợp tài sản giao dịch
là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển
giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người
thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này
thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này
không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa"

- Theo khoản 3 điều 133 BLDS năm 2015 quy định: "Chủ sở hữu không có
quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người
này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 điều này nhưng có quyền khởi
kiện yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba
phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại"

Câu 3: Để bảo vệ bà X, theo tòa án nhân dân tối cao tòa án phải xác định
trách nhiệm của bạn nào như thế nào đối với bà X ?

Trả lời: Theo tòa án nhân dân tối cao thì:

Tòa án cấp phúc thẩm không áp dụng các điều luật nêu trên để công nhận
diện tích đất cho bà L, ông Đ, bà T mà buộc bà N trả cho nguyên đơn 914m 2 đất
trong đó có 744m2 bà L đứng tên và 170,9m2 đất ông Đ, bà T đứng tên là không
đúng. Trong trường hợp này, tòa án buộc bà N trả bằng giá trị quyền sử dụng
diện tích 914m2 mới phù hợp

Câu 4: Hướng của tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên đã được quy
định trong Bộ luật Dân sự chưa?

Trả lời:

Hướng giải quyết của toà án nhân dân tối cao đã được quy định trong bộ luật
dân sự năm 2015
Cụ thể là ở khoảng 3 điều 133 BLDS 2015.

Câu 2.5: Theo anh chị hướng giải quyết của tòa án nhân dân tối cao
(trong câu trên) có thuyết phục không? Vì sao?
- Trả lời: Hướng giải quyết của tòa án nhân dân tối cao hoàn toàn thuyết phục
bởi vì căn cứ theo điều 256 và điều 258 BLDS 2005 và điều 168, điều 170 LDS
2015

- Điều 168 BLDS 2015 quy định: "Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng
ký quyền sở hữu hạn bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình từ trường hợp
quy định tại khoản 2 điều 103 của bộ luật này" .

- Điều 170 BLDS 2015 quy định: "Chủ sở hữu chủ thể có quyền khác đối với tài
sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu quyền khác đối
với tài sản bồi thường thiệt hại".

=> Tòa án đã buộc bà N trả lại cho bà X bằng giá trị quyền sử dụng đất là hoàn
toàn hợp lí .

III/ LẤN CHIẾM TÀI SẢN LIỀN KỀ

Tóm tắt quyết định:

*Tóm tắt Quyết định: số 617/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011 về vụ án tranh


chấp ranh đất của Tòa dân sự tòa án nhân dân tối cao: Thửa đất số 53 của ông
Trụ, bà Nguyên liền kề thửa số 76 của ông Hòa. Năm 1995, ông Hòa được cấp
phép xây dựng nhà 2 tầng. Năm 2002, ông Hòa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng 184m2 đất thửa 76. Khi sửa chữa nhà, ông Hòa phần không gian, mặt
đất, lòng đất của ông Trụ. Tòa sơ thẩm, phúc thẩm buộc ông Hòa tháo dỡ 4 ô
văng cửa sổ, 1 máng bê tông nhưng không giải quyết vụ ống thoát nước. Tòa án
nhân dân tối cao hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm; giao lại cho Tòa thị xã Trà
Vinh xét xử sơ thẩm lại.

*Tóm tắt Quyết định: số 23/2006/DS-GĐT ngày 07/09/2006 của Hội đồng
thẩm phán tòa án nhân dân tối cao: Ông Trê tranh chấp 185m2 đất với ông
Hậu. Đất đã được cấp giấy chứng nhận cho ông Trê quyền sử dụng vào năm
1994. Ông Hậu đã lấn chiếm 52,2m2 đất để xây nhà chính, 18,5m2 xây nhà phụ
và 10,17m2 phần không gian máng xối. Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm chưa giải
quyết phần máng xối và nhà phụ. Tòa án tối cao hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm;
giao cho Tòa án tỉnh CM xét xử sơ thẩm lại.
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Tận đã lấn sang đất
thuộc quyền sử dụng của ông Trường, bà Thoa và phần lấn cụ thể là bao
nhiêu?

Trả lời:

- Trích trong Quyết định số 23/2006/ĐS-GĐT phần xem xét của Hội đồng thẩm
phán của Toà án nhân dân tối cao: “Toà án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả
132,8 m2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất trống cho ông Trê và bà Thi, còn phần
đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà (52,2 m2) thì giao ông Hậu
sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi
là hợp tình, hợp lý.

- Tuy nhiên, ngoài diện tích 52,2 m2 nêu trên, căn nhà của ông Hậu còn có hai
máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trê và bà Thi
có diện tích 10,71 m2 chưa được Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm
xem xét buộc ông Hậu phải tháo dỡ hoặc phải thanh toán giá trị quyền sử dụng
đất cho ông Trê và bà Thi là chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của ông Trê và bà
Thi.

- Mặc khác, theo báo cáo của Cơ quan Thi hành án và theo khiếu nại của ông
Trê, thì ngoài căn nhà nằm trên diện tích 52,2 m2 Toà án các cấp giao cho ông
Hậu sử dụng, còn có một căn nhà phụ có diện tích 18,57 m2 của ông Hậu xây
dựng trên diện tích đất mà Toà án các cấp buộc ông Hậu trả lại cho ông Trê, bà
Thi nhưng Toà án các cấp cũng chưa xem xét giải quyết, gây khó khăn cho việc
thi hành án”.

Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hoà đã lấn
sang đất (không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình
ông Trụ, bà Nguyên?

Trả lời:

- Trích trong Quyết định số 617 phần kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân
tối cao đối với bản án phúc thẩm số 127/2008/DSPT của Toà án nhân dân tỉnh
Trà Vinh: “Ông Ngô Văn Hoà cho rằng, nhà đất có nguồn gốc của cụ Ngô Văn
Nồi (cha của ông); năm 1995 ông được cấp giấy phép xây dựng nhà (sữa chữa)
cụ thể: nhà 2 tầng (14m× 4,20m) và phần trệt phía sau (16.42m× 4,20m). Ông
không xây dựng mới hoàn toàn mà chỉ xây chồng lên thêm 4 tất cho phù hợp với
kích thước nâng nền nhà; ông không lấn chiếm ranh đất của ông Trụ.

- Thực tế trên phần đất tranh chấp này có công trình phụ gồm: ô văng, đòn tay,
đường ống. Toà án cấp sơ thẩm xác định đất của ông Trụ và bà Nguyên đến sát
tường nhà của ông Hoà, nên đã buộc bị đơn tháo dỡ tất cả phần ô văng, đòn tay,
mái nhà của nhà ông Hoà nhô ra (theo bản vẽ xây dựng là từ điểm F đến điểm J)
đến sát tường của ông Hoà, nhưng lại không giải quyết phần đường ống của ông
Hoà nằm dưới đất thuộc quyền sở hữu của ông Trụ, bà Nguyên là trái với
Khoảng 2 Điều 265 Bộ luật dân sự năm 2005.”

Câu 3: BLDS có quy định nào điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất và
không thuộc quyền sở hữu của người khác hay không?

Trả lời:

-Theo Điều 174 BLDS năm 2015: Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng: “Khi
xây dựng công trình, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải tuân
theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao,
khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không được xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản là
bất động sản liền kề và xung quanh”.

- Theo Điều 175 BLDS năm 2015: Ranh giới giữa các bất động sản:

“1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận
hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ranh giới cũng có
thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên
mà không có tranh chấp. Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách,
kể cả trường hợp ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có
nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung.

2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng
đứng từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không
được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác. Người sử dụng đất
chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử
dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá
ranh giới thì phải xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.”

Câu 4: Ở nước ngoài, việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế nào?

Trả lời:

-Tại nước Pháp với Bộ luật dân sự Napoleon có quy định:

+ Điều 673: “chủ sở hữu bất động sản có quyền buộc bên hàng xóm phải cắt
bỏ các cành cây mọc vươn sang được hưởng, nếu rễ cây hoặc cành nhỏ mọc
vươn sang đất người khác thì người đó có quyền cắt các rễ cây hoặc cành nhỏ đó
đến giới hạn đường phân chia của hai bên.”

+ Điều 675: “Chủ sở hữu bất động sản liền kề không được trỗ cửa sổ hoặc lỗ
cửa vào bức tường chung dù bằng bất cứ cách nào, kể cả có lắp kính mờ, trừ
trường hợp được chủ sở hữu bất động sản liền kề bên kia đồng ý.”

+ Điều 681: “Chủ sở hữu bất động sản phải lắp đặt mái nhà sao cho nước
mưa chảy vào đất nhà mình hoặc đường công cộng, không được để nước mua
chảy vào đất của bên hàng xóm.”

=> Như vậy, ta có thể thấy chủ sở hữu bất động sản nếu có hành vi lấn chiếm dù
vô tình hay cố ý sang bất động sản bên cạnh thì đều phải tháo dỡ, cắt bỏ nếu chủ
sở hữu bất động sản bên kia yêu cầu.

Câu 5: Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy Toà dân sự Toà án nhân
dân tối cao theo hướng buộc gia đình ông Hoà tháo dỡ tài sản thuộc phần
lấn sang không gian, mặt đất và lòng đất của gia đình ông Trụ, bà Nguyên?

Trả lời:

- Trích trong Quyết định số 617 phần xem xét tại phiên toà giám đốc thẩm, đại

diện Viện kiểm sát Nhân dân tối cao:

“Khi sửa chữa lại nhà gia đình ông Hoà có làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê
tông và chôn dưới đất một ống thoát nước nằm ngoài phía tường nhà. Trong quá
trình giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xác định gia
đình ông Hoà làm 4 ô văng của sổ, một máng bê tông chờm qua phần đất thuộc
quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên nên quyết định buộc gia đình
ông Hoà phải tháo dỡ là có căn cứ .

- Tuy nhiên, dưới lòng đất sát tường nhà ông Hòa còn ống nước do gia đình ông
Hòa chôn nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm không buộc gia đình ông
Hòa phải tháo dỡ là không đúng, không đảm bảo được quyền lợi của gia đình
ông Trụ.

=> Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân là có căn cứ. Hội đồng
giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao thấy cần thiết phải hủy bản
án dân sự phúc thẩm và hủy bản án dân sự sơ thẩm để xét xử sở thẩm lại theo
quy định của pháp luật.”

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật Dân sự 2015.


2. Bộ luật Dân sự 2005.

3. Lê Minh Hùng, Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và
quyền thừ kế của Đại học Luật TP.HCM, Nxb Hồng Đức 2018, Chương
IV.

4. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.116 đến 120; 144 đến 149.

5. Đỗ Thành Công, “Quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không có căn
cứ pháp luật”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 15 tháng 8 năm 2010.

6. Đỗ Văn Đại - Lương Văn Lắm, “Xử lí lấn chiếm tài sản người khác trong
pháp luật Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 4 (59) 2010.

You might also like