Professional Documents
Culture Documents
HOẠT ĐỘNG THẦN KINH CAO CẤP TỔNG QUÁT
HOẠT ĐỘNG THẦN KINH CAO CẤP TỔNG QUÁT
Một câu hỏi có thể được đặt ra là tại sao vỏ não lại dành một diện tích lớn như vậy cho một
tác vụ đơn giản là nhận dạng khuôn mặt ?
✓ Tuy nhiên, hầu hết các hoạt động thường ngày của chúng ta nằm trong mối liên hệ với con
người, vì vậy vùng này quan trọng với chức năng tư duy.
✓ Phần thùy đỉnh của vùng nhận dạng khuôn mặt tiếp giáp với vỏ não thị giác và phần thái
dương thì liên quan chặt chẽ với hệ viền trong cảm xúc, sự kích hoạt não và kiểm soát
hành vi của một người đáp ứng với môi trường.
B. CHỨC NĂNG THÔNG HIỂU DIỄN DỊCH CỦA PHẦN SAU TRÊN
THÙY THÁI DƯƠNG – VÙNG WERNICKE (VÙNG THÔNG HIỂU
DIỄN DỊCH TỔNG THỂ):
I. VÙNG HỘI TỤ - WERNICKE:
1. CÁC VÙNG HƯỚNG VỀ VÙNG WERNICKE:
− Tất cả các vùng liên hợp bản thể, thị giác và thính giác cùng tiếp hợp với một vùng phía sau
của phía trên thùy thái dương – nơi các thùy thái dương, đỉnh và chẩm hội tụ.
− Vùng hội tụ của các vùng diễn dịch cảm giác khác nhau này đặc biệt phát triển ở bán cầu
ưu thế của não (phía bên trái đối với hầu hết người thuận tay phải) và đóng vai trò duy nhất
trong toàn bộ vỏ não cho chức năng thông hiểu mức độ cao của não mà chúng ta gọi là
trí thông minh.
− Vùng này được gọi với các tên khác nhau gợi ý về một vùng có tầm quan trọng đối với cả bộ
não: vùng diễn dịch tổng, vùng nhận thức, vùng nhận biết, vùng liên hợp tối cao, ….
− Vùng này được biết đến nhiều nhất với tên Vùng Wernicke để vinh danh nhà thần kinh học
đầu tiên mô tả đặc tính của nó trong quá trình tư duy.
❖ Có thể nhấn mạnh tầm quan trọng hệ thống của vùng Wernicke trong việc xử lý hầu hết các
chức năng tư duy của não qua việc mất vùng này ở người trưởng thành thường gây ra sự sa
sút trí tuệ vĩnh viễn.
II. KHÁI NIỆM BÁN CẦU ƯU THẾ:
1. KHÁI NIỆM:
− Chức năng diễn dịch toàn thể của vùng Wernicke và hồi góc, cũng như các chức năng vùng
lời nói và kiểm soát vận động thường phát triển mạnh ở một bán cầu hơn bên còn lại ⟹ Vì
thế, bán cầu này được gọi là bán cầu ưu thế.
− Khoảng 95% loài người có bán cầu não trái là ưu thế.
− Ngay lúc sinh ra, vùng vỏ não về sau sẽ trở thành vùng Wernicke ở bán cầu não trái rộng
hơn 50% bán cầu não phải ở hơn một nửa trẻ sơ sinh.
▪ Vì thế, có thể dễ dàng hiểu được tại sao não trái có thể trở nên ưu thế so với bên phải.
▪ Tuy vậy, nếu vì lý do nào đó vùng bên trái này bị phá hủy hoặc cắt bỏ từ rất sớm, bên đối
diện của não thường sẽ phát triển các đặc tính ưu thế.
2. GIẢI THÍCH KHẢ NĂNG MỘT BÁN CẦU ƯU THẾ HƠN BÁN CẦU CÒN LẠI:
− Sự tập trung của “tâm trí” có vẻ nhắm vào một ý nghĩ chủ đạo vào một thời điểm → Giả sử,
do phía sau thùy thái dương bên trái thường hơi lớn hơn bên phải lúc sinh ra, bên trái
thường bắt đầu mở rộng mạnh hơn bên phải:
• Vì thế, do khuynh hướng sự tập trung của một người liên kết với vùng được phát
triển mạnh hơn → Tốc độ học tập của bán cầu khởi đầu trước gia tăng nhanh chóng,
trong khi ở bên đối diện, bên ít được sử dụng, học những phần còn lại phát triển chậm
hơn.
• Ở 95% loài người, thùy thái dương trái và hồi góc trở nên ưu thế và ở 5% còn lại, cả
hai bán cầu phát triển song song cả hai chức năng, hoặc hiếm hơn, bên phải trở nên phát
triển mạnh chiếm sự ưu thê.
3. SỰ LIÊN QUAN GIỮA BÁN CẦU ƯU THẾ VÀ CỬ ĐỘNG CHI THUẬN:
a. Vùng lời nói tiền vận động (vùng Broca), cũng hầu như luôn luôn ưu thế hơn ở bên não
trái. Vùng lời nói này chịu trách nhiệm cho việc tạo thành từ ngữ bằng cách kích thích
đồng thời các cơ vùng thiệt hầu, cơ hô hấp và cơ miệng.
b. Các vùng vận động điều khiển tay cũng ưu thế ở bên não trái 9/10 người → vì vậy đưa
đến sự thuận tay phải ở hầu hết mọi người.
4. KẾT LUẬN:
❖ Mặc dù vùng diễn dịch thuộc về thùy trán và hồi góc, cũng như nhiều vùng vận động phát
triển mạnh chỉ ở bán cầu trái → Nhưng những vùng này lại nhận thông tin cảm giác từ
cả hai bán cầu và cũng có khả năng điều khiển hoạt động vận động ở cả hai bán cầu.
⟹ Để giải thích điều này có thể đề cập các sợi tín hiệu trong thể chai trong giao tiếp giữa
hai bán cầu.
III. VAI TRÒ NGÔN NGỮ TRONG CHỨC NĂNG VÙNG WERNICKE &
CHỨC NĂNG TƯ DUY:
− Một điểm chung lớn của các trải nghiệm cảm giác là chúng được chuyển đổi thành ngôn
ngữ tương đương trước khi được lưu trữ trong các vùng nhớ của não và trước khi
được xử lý cho mục đích tư duy.
⟹ Ví dụ, khi chúng ta đọc một cuốn sách, chúng ta không lưu giữ hình ảnh thị giác của chữ
được in mà thay vào đó là lưu trữ ý nghĩa của chúng, thường ở dạng ngôn ngữ.
− Vùng cảm giác của bán cầu ưu thế đối với vùng Wernicke và vùng này liên hệ chặt chẽ với
cả vùng nghe nguyên phát và thứ phát của thùy thái dương.
• Sự liên hệ chặt chẽ này có thể là kết quả từ sự tiếp cận ngôn ngữ khởi đầu bằng cách
lắng nghe.
• Về sau, khi sự tiếp nhận hình ảnh thông qua môi trường đọc tăng dần, thông tin hình
ảnh truyền tải thông qua chữ viết sau đó được thiết lập thông qua hồi góc - một vùng liên
hợp thị giác, với vùng Wernicke đã hình thành của thùy thái dương chiếm ưu thế.
C. CHỨC NĂNG CỦA VỎ NÃO – ĐỈNH – CHẨM – THÁI DƯƠNG Ở
BÁN CẦU KHÔNG ƯU THẾ:
I. SỰ ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI GIỮA HAI BÁN CẦU:
➢ Khi vùng Wernicke ở bán cầu ưu thế của
một người trưởng thành bị phá hủy, người
đó thường mất hầu hết các chức năng tư
duy liên quan đến ngôn ngữ hoặc hệ lời nói
như khả năng đọc, khả năng giải toán và
thậm chí khả năng suy nghĩ các vấn đề
logic.
➢ Nhiều dạng khác Ở bán cầu đối bên
(không ưu thế) về khả năng diễn dịch, thùy thái dương và các vùng hồi góc của lại được bảo
toàn.
II. CHỨC NĂNG BÁN CẦU KHÔNG ƯU THẾ:
❖ Bán cầu không ưu thế có lẽ đặc biệt quan trọng cho việc:
✓ Hiểu và diễn dịch âm nhạc
✓ Các trải nghiệm hình ảnh không phụ thuộc lời nói (đặc biệt các mẫu hình thị giác)
✓ Mối liên hệ không gian giữa một người với môi trường xung quanh
✓ Sự nổi bật của “ngôn ngữ cơ thể” và ngữ điệu của giọng nói và có thể nhiều trải nghiệm
bản thể liên quan đến sử dụng tay chân.
❖ Vì vậy, mặc dù chúng ta nói bán cầu “ưu thế” → Sự “ưu thế” này chủ yếu đối với các chức
năng tư duy dựa trên ngôn ngữ.
⟹ Bán cầu không ưu thế thực ra “ưu thế” với một số loại trí thông minh khác.
D. CHỨC NĂNG NHẬN THỨC CAO CẤP CỦA VÙNG LIÊN HỢP
TRÁN TRƯỚC:
I. LƯỢC SỬ & NGHIÊN CỨU CHỨNG MINH:
1. LƯỢC SỬ:
− Trước kia, vỏ não trước trán được tin là vùng của sự tư duy mức độ cao ở loài người, chủ yếu
do sự khác biệt chính giữa não của khỉ và người là phần nhô cao của vùng trước trán ở người.
Thực tế, sự phá hủy vùng thông hiểu ngôn ngữ (vùng Wernicke) và vùng hồi góc lân cận
ở bán cầu ưu thế gây ra nhiều tác động xấu đến sự tuy duy hơn phá hủy vùng trước trán.
Tuy vậy, Vùng trước trán quan trọng với chức năng nhận thức.
2. NGHIÊN CỨU:
− Một vài thế kỷ trước, trước khi những thuốc mới điều trị các tình trạng tâm lý xuất hiện, một số
bệnh nhân được phát hiện có thể có được sự giải phóng khỏi trạng thái trầm cảm bằng cách
điều chỉnh các kết nối giữa vùng trước trán với phần còn lại của não bằng một thủ thuật có tên
là Cắt bỏ thùy trán trước.
− Những nghiên cứu trên các bệnh nhân này ghi nhận được các thay đổi tâm lý như sau:
(1.) Bệnh nhân mất khả năng giải quyết các bài toán phức tạp.
(2.) Họ không thế xâu chuỗi các tác vụ nối tỉếp nhau để thực hiện một mục tiêu cần sự phối
hợp.
(3.) Họ không thể tìm cách thực hiện nhiều công việc song song cùng lúc.
(4.) Phản ứng giao tiếp thường không phù hợp với hoàn cảnh, thường bao gồm khiếm khuyết
nhân cách và thiếu kiểm chế trong hoạt động tình dục và bài tiết.
(5.) Bệnh nhân vẫn có thể nói và hiểu ngôn ngữ, nhưng không thể theo dõi dòng suy nghĩ dài
và tâm trạng thường thay đổi nhanh từ nhẹ nhàng sang điên cuồng rồi hồ hởi đến giận
dữ.
(6.) Bệnh nhân vẫn có thể thực hiện những mẫu hình vận động thông thường họ đã làm trong
cuộc sống, nhưng thường không có mục đích.
II. CHỨC NĂNG VÙNG LIÊN HỢP TRÁN TRƯỚC:
1. Sự suy giảm tính hung hăng và những hành vi xã hội không phù hợp.
− Suy giảm tính và những hành vi xã hội không phù hợp có thể là kết quả của sự mất vùng
bụng của thùy trán ở mặt dưới não → Vùng này là phần thuộc hệ limbic hơn là võ nào thùy
trán trước.
− Phần thuộc hệ limbic này giúp kiểm soát hành vi.
2. Sự mất khả năng xử lý theo mục đích hoặc suy nghĩ liên hoàn (sự tập trung)
− Nhiều vùng liên hệ với thùy trán trước có khả năng gợi nhớ thông tin trải khắp não bộ và sử
dụng thông tin này để tạo thành các mô hình suy nghĩ phức tạp để đạt được mục đích.
− Mặc dù nhiều người không có vỏ não thùy trán trước vẫn có thể suy nghĩ nhưng họ khó phối
hợp các suy nghĩ logic thành chuỗi kéo dài hơn vài giây hoặc khoảng một phút.
⟹ Vậy, người không có vỏ não thùy trán trước dễ bị phân tán tư tưởng khỏi chủ đề đang suy
nghĩ, trong khi người có thùy trán trước bình thường có thể thúc đẩy chính họ hoàn thành
mục tiêu suy nghĩ mà không quan tâm đến yếu tố gây nhiễu.
3. Sự phối hợp ý nghĩ, sự dự đoán và quá trình thực hiện các chức năng tư duy cao cấp của
thùy trán trước – Khái niệm của “trí nhớ hoạt động”
− Một chức năng được gán cho thùy trán trước là sự phối hợp suy nghĩ, nghĩa là gia tăng chiều
sâu và tính trừu tượng của những ý nghĩ rời rạc được ghép lại với nhau từ nhiều nguồn thông
tín.
− Khả năng này của thùy trán trước trong việc nắm bắt nhiều đơn vị thông tin cùng lúc và đưa
đến việc gợi nhớ những thông tin này trong khoảnh khắc cần thiết cho những suy nghĩ sau đó
được gọi là “trí nhớ hoạt động”
▪ Khái niệm giúp giải thích nhiều chức năng của não liên hệ với trí thông minh.
▪ Các vùng của thùy trán trước được chia thành những mảnh tách biệt lưu trữ nhiều loại
ký ức tạm thời khác nhau như có một vùng dành để chứa hình dạng của một đối tượng
và một vùng khác dành cho sự chuyển động.
III. TỔNG KẾT:
❖ Bằng cách kết hợp tất cả những đơn vị tạm thời của bộ nhớ hoạt động này, chúng ta có khả
năng:
1) Tiên đoán
2) Lên kế hoạch cho tương lai
3) Trì hoãn phản ứng với các tín hiệu cảm giác đầu vào để thông tin cảm giác được cân
nhắc cho đến khi phản ứng phù hợp nhất được lựa chọn
4) Xem xét chuỗi các hành động trước khi thực hiện chúng
5) Giải quyết những vấn đề toán học, pháp lý hoặc triết học phức tạp
6) Liên hệ tất cả những luồng thông tin vào việc chẩn đoán những bệnh hiếm
7) Kiểm soát hoạt động của chúng ta dựa trên các chuẩn mực đạo đức.
Mép trước
❖ KẾT LUẬN
➢ Vì vậy, hai nửa bán cầu có khả năng độc lập đối với sự nhận thức, lưu trữ trí nhớ, giao
tiếp và kiểm soát các hoạt động vận động.
➢ Thể chai cần thiết cho sự hoạt động phối hợp hai bên ở mức độ bán ý thức
➢ Mép nối trước đóng vai trò hỗ trợ quan trọng trong việc đồng bộ các đáp ứng cảm xúc
của cả hai bên não.
F. CHỨC NĂNG HÀNH VI CỦA ĐỒI THỊ & CÁC CẤU TRÚC
L.QUAN HỆ VIỀN:
I. CHỨC NĂNG “THƯỞNG” VÀ “PHẠT” CỦA HỆ VIỀN
➢ Chức năng của một số cấu trúc thuộc hệ viền rõ ràng có liên quan chuyên biệt với tác động tự
nhiên của cảm nhận cảm giác là dễ chịu hay không dễ chịu ⟹ Những đặc tính tự nhiên này
còn được gọi là tính thưởng hay tính phạt, hay thỏa mãn hoặc ác cảm.
➢ Những mức độ kích thích của hai hệ thống đáp ứng trái ngược nhau này ảnh hưởng mạnh mẽ
đến hành vi của con vật.
1. TRUNG TÂM THƯỞNG:
− Nếu việc kích thích một vùng đặc biệt cho con vật cảm nhận được tính thưởng, nó sẽ nhấn
đòn bẳy lặp đi lặp lại. Thậm chí khi gợi ý việc ăn vài món ngon nào đó bên cạnh cơ hội kích
thích con vật chọn sự kích thích điện hơn.
− Trung tâm thưởng được tìm thấy dọc theo bó
giữa não trước, đặc biệt ở nhân bên và nhân
bụng giữa của vùng hạ đồi.
− Nhân bên là một vùng đáp ứng mạnh nhất vì ngay
cả kích thích mạnh hơn vùng này có thể gây ra sự
điên cuồng.
▪ Tuy vậy, hiện tượng này xảy ra với nhiều vùng,
với kích thích yếu cho sự cảm nhận thưởng và
một kích thích mạnh cho sự cảm nhận phạt.
▪ Các trung tâm thưởng có hiệu lực thấp hơn, có thể hoạt động thứ phát sau các trung tâm
chính ở vùng hạ đồi được tìm thấy ở vách ngăn, thể hạnh nhân, một số vùng của đồi thị và
hạch nền và kéo dài xuống phần mái của trung não.
2. TRUNG TÂM PHẠT
− Sự kích thích lên những vùng này làm con vật biểu hiện sự khó chịu, sợ hãi, kinh hoàng, đau
đớn, bị trừng phạt và thậm chí bệnh.
− Trung tâm phạt được tìm thấy ở vùng chất xám trung tâm xung quanh Cống não Sylvius ở
trung não và kéo dài lên tận khu vực quanh não thất của vùng hạ đồi và đồi thị.
− Các vùng phạt ít ảnh hưởng hơn được tìm thấy ở một số nơi trong thể hạnh nhân và hồi hải
mã.
− Việc kích thích lên trung tâm phạt có thể thường xuyên ức chế hoàn toàn các trung tâm
thưởng và dễ chịu, cho thấy rằng sự trừng phạt cảm giác và sợ hãi có thể chiếm ưu thế hơn
ban thưởng và dễ chịu.
II. MỐI LIÊN HỆ GIỮA SỰ ĐIÊN CUỒNG VỚI CÁC TRUNG TÂM PHẠT:
1. KÍCH THÍCH “MÔ HÌNH GIẬN DỮ”:
❖ Kích thích mạnh các trung tâm trừng phạt của não, đặc biệt ở khu vực quanh não thất của
vùng hạ đồi và đồi thị bên làm con vật xuất hiện “Mô hình giận dữ” :
(1) Tạo tư thế phòng vệ
(2) Giương vuốt
(3) Dựng đuôi
(4) Gầm gừ
(5) Dựng lông mở to mắt- dãn đồng tử.
⟹ Ngay cả với sự khiêu khích nhẹ có thể gây ra sự tấn công mạnh mẽ một cách đột ngột.
⟹ Hành vi này phù hợp với dự đoán khi một con vật bị trừng phạt tàn bạo.
2. ỨC CHẾ MÔ HÌNH GIẬN DỮ:
− Ở con vật bình thường, hiện tượng điên cuồng bị kiềm chế chủ yếu nhờ sự ức chế tín hiệu
từ các nhân bụng bên của vùng hạ đồi.
− Thêm nữa, các phần hồi hải mã và vỏ não thuộc hệ limbic trước, đặc biệt ở vùng hồi đai
trước và thể chai giúp ngăn chặn mô hình điên cuồng.
III. TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ THƯỞNG - PHẠT ĐỐI VỚI HÀNH VI:
− Các trung tâm thưởng - phạt thiết lập nên một trong các cơ chế quan trọng nhất trong việc kiểm
soát hoạt động cơ thể, động lực, ác cảm và động cơ.
− Tác động của chất gây mê trên lên các trung tâm thưởng – phạt:
✓ Việc sử dụng chất gây mê, như chlorpromazine → thường ức chế cả trung tâm thưởng
và phạt.
✓ Vì thế, tác dụng của chất gây mê lên các trạng thái tâm thần được cho là sự ức chế nhiều
vùng chịu trách nhiệm hành vi quan trọng của vùng hạ đồi và các vùng liên quan thuộc hệ
viền.