You are on page 1of 86

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN THỊ MINH HUYỀN

BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT


NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan:


Luận văn thạc sĩ đề tài “Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn thành phố Lai Châu, tỉnh
Lai Châu” là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô PGS.TS.
Nguyễn Thị Nga. Các số liệu và tài liệu tham khảo dùng trong luận văn đều
được trích dẫn rõ ràng, và trung thực, tên tác giả, tên công trình, thời gian, địa
điểm công bố tôi đều đã trích dẫn đầy đủ ở danh mục tài liệu tham khảo theo
đúng yêu cầu của Quy chế đào tạo.
Tác giả luận văn

Đoàn Thị Minh Huyền

2
LỜI CẢM ƠN

Học viên xin trân trọng gửi lời cảm ơn vô cùng sâu sắc tới cô PGS.TS.
Nguyễn Thị Nga đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn khoa học, giúp đỡ học viên
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài Luận văn này.
Đồng thời, học viên cũng xin gửi lời chân thành cảm ơn đến Ban Giám
hiệu, các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ và các giảng viên Học viện khoa học
xã hội đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức trong quá trình học viên
theo học tại Học viện. Cảm ơn toàn thể cán bộ, nhân viên Học viện khoa học
xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho học viên trong thời gian học tập và
nghiên cứu nhằm hoàn thành chương trình Cao học.
Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả
MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ....... 7
1.1. Lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ............................ 7
1.2. Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp18
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU .............. 29
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ........................................................................................................................ 29
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp tại thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu ................................................. 51
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ LAI CHÂU,
TỈNH LAI CHÂU .................................................................................................... 66
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp qua thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai
Châu .......................................................................................................................... 66
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp qua thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu ....... 68
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu ...................... 71
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Viết tắt Nguyên nghĩa


1 CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
2 CP : Chính phủ
3 GPMB : Giải phóng mặt bằng
4 NĐ-CP : Nghị định - Chính phủ
5 QĐ-UBND : Quyết định - Ủy ban nhân dân
6 QSDĐ : Quyền sử dụng đất
7 TĐC : Tái định cư
8 TT-BTNMT : Thông tư - Bộ Tài nguyên và Môi trường
9 SDĐ : Sử dụng đất
10 UBND : Ủy ban nhân dân
11 VT : Vị trí
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài


Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, là nguồn lực quan trọng để
phát triển đất nước, đồng thời là nơi sinh sống và tư liệu sản xuất chính của
con người. Tuy nhiên, một điều mang tính tất yếu hiện nay là việc sử dụng đất
đai vào các mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng
để thực hiện quá trình phát triển CNH - HĐH và mục tiêu phát triển đất nước,
đặc biệt là các dự án phát triển cơ sở hạ tầng đô thị, dự án sản xuất, kinh doanh
phát triển kinh tế được thực hiện đều làm giảm diện tích đất nông nghiệp.
Thu hồi đất nông nghiệp luôn là một vấn đề khó khăn, phức tạp vì khi
thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng của người đang sử dụng
đất dẫn đến người sử dụng đất bị chấm dứt quyền khai thác hoa lợi, lợi tức từ
đất mà họ đang được hưởng nhưng nguyên nhân không do họ gây ra; chúng
có thể tác động và ảnh hưởng lớn tới đời sống, việc làm và cả tâm lý, tình cảm
của người dân. Do vậy, là chủ sở hữu đại diện toàn bộ đất đai, lại là chủ thể
thống nhất quản lý toàn bộ đất đai, Nhà nước phải có trách nhiệm bù đắp
những tổn thất về lợi ích vật chất và tinh thần, giúp người dân ổn định đời
sống của mình. Một trong những trách nhiệm của Nhà nước là thực hiện bồi
thường thiệt hại, hỗ trợ cho người dân có đất bị thu hồi.
Nhận thức được những vấn đề trên đây, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp nhằm giải quyết hài hòa giữa lợi ích của người
có đất bị thu hồi, Nhà nước và nhà đầu tư. Với sự thay đổi của pháp luật đất
đai trong thời gian qua, vấn đề bồi thường và hỗ trợ đã được thay đổi mang
chiều hướng tích cực hơn nhiều so với trước đây; theo đó, quyền lợi của
người có đất bị thu hồi cũng đã được quan tâm cải thiện.

1
Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện các quy định về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cũng vẫn còn thể hiện nhiều bất
cập, vướng mắc trong thời gian qua. Trong đó, Lai Châu với tỉnh được chia
tách và hình thành muộn hơn so với các tỉnh thành khác trong cả nước nên
công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ để phục vụ cho công tác xây dựng và
phát triển diễn ra sôi động nhưng nhiều phức tạp, còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Nhiều khiếu kiện diễn ra, nhiều dự án bị chậm tiến độ do không giải phóng
được mặt bằng, thu hồi đất không đúng thẩm quyền, xác định trường hợp thu
hồi đất không đúng,… Nhà nước giải quyết còn nhiều lúng túng trong việc áp
dụng các quy định về giá đất bồi thường; quy định về cơ chế thu hồi đất sử
dụng vào mục đích kinh tế; quy định về thời điểm xác định giá bồi thường, hỗ
trợ v.v... Thực trạng nêu trên nên tác giả lựa chọn đề tài: “Bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn
thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu” làm Luận văn Thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng là
những vấn đề vô cùng phức tạp khi triển khai trong thực tiễn, nhiều khiếu nại,
tố cáo và sự bất bình của người dân phát sinh từ chính vấn đề này trong nhiều
năm qua. Vì vậy, đây là vấn đề dành được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của
các nhà khoa học, là các đề tài được nhiều học viên tại các cơ sở đào tạo ở
cấp bậc đại học, sau đại học lựa chọn để thực hiện việc nghiên cứu. Trong
thời gian vừa qua đã có một số công trình, sách báo pháp lý nghiên cứu về
lĩnh vực này dưới góc độ lý luận và thực tiễn; nhất là các công trình nghiên
cứu khi trước thềm Luật Đất đai 2013 và sau khi Luật Đất đai 2013 ra đời.
Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của các tác giả: Ngô Thị Hoa,“Pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn tại thị xã Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2017; Ts. Doãn Hồng

2
Nhung (Chủ biên), “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng
mặt bằng ở Việt Nam”, sách chuyên khảo, NXB Tư pháp năm 2013; “Pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất - Thực trạng
và hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Thị Nga, trường Đại học Luật Hà
Nội, 2013; TS. Nguyễn Thị Nga, “Một số ý kiến trao đổi về vấn đề thu hồi
đất, bồi thường,hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Dự thảo
Luật Đất đai sửa đổi”, Hội thảo khoa học góp ý Luật Đất đai sửa đổi, Hà Nội,
ngày 12/4/2013; PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến, “Bình luận và góp ý đối với
các quy định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trong Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi”, Hội thảo khoa học góp ý Luật Đất đai
sửa đổi, Hà Nội, ngày 12/4/2013; PGS.TS. Nguyễn Thị Nga: "Thủ tục hành
chính trong lĩnh vực đất đai"; Tạp chí Luật học (Số đặc san 2014); PGS.TS.
Nguyễn Thị Nga: "Bàn về vấn đề giá đất theo Luật Đất đai 2013"; Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật; tháng 5/2015; Phạm Thu Thủy, “Pháp luật về Bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ
Luật học (2014); Nguyễn Thị Tâm,“Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi”,
Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013);
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đi sâu phân tích những vấn đề lý
luận và thực tiễn pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói
chung và đất nông nghiệp nói riêng như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, sự ảnh
hưởng và tính tất yếu của bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; đồng
thời, nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, cơ cấu pháp luật điều chỉnh về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; đánh giá thực trạng và kiến nghị giải
pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói
chung và đất nông nghiệp nói riêng; nâng cao hiệu quả thực thi v.v.
Đây là những tài liệu vô cùng quý giá để người thực hiện đề đề tài lĩnh

3
hội, tiếp thu và làm giàu thêm những tiền đề lý luận, làm sâu sắc thêm những
khía cạnh pháp luật và các góc nhìn rộng hơn về thực tiễn thực thi pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được thực hiện trên địa bàn
của một tỉnh miền núi phía Bắc là tỉnh Lai Châu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận chung và pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Đồng thời đánh
giá thực trạng pháp luật và thông qua thực tiễn thi hành để đề xuất giải pháp
hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp; nâng cao hiệu quả thi hành tại thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Trong đó phân tích khái niệm, đặc
điểm; cơ cấu pháp luật điều chỉnh cũng như các yếu tố chi phối tới pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp; từ thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Lai Châu chỉ
ra những thành tựu, những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc trên cơ sở tìm hiểu
rõ nguyên nhân khách quan và chủ quan.
- Đề xuất ý kiến góp phần hoàn thiện công tác bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Là các quy định của pháp luật đất đai hiện hành, bao gồm các các văn
bản Luật, các Nghị định, các Thông tư và đặc biệt là các văn bản của địa
phương – tỉnh Lai Châu quy định trực tiếp về vấn đề bồi thường khi Nhà nước

4
thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, phát
triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng và việc vận dụng các quy
định này trong thực tiễn tại địa phương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
theo pháp luật đất đai từ thực tiễn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu”, trong
phạm vi quy định của một luận văn thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng
dẫn thi hành. Đồng thời, Luận văn cũng nghiên cứu tìm hiểu các quy định
pháp luật của UBND tỉnh cũng các văn bản có liên quan đến việc bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá: Phân tích, tổng
hợp số liệu, dữ liệu thu thập được từ thực tiễn thi hành trên phạm vi thành phố
Lai Châu... để phân tích, đánh giá thực trạng công tác bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
- Phương pháp so sánh: sử dụng phương pháp này để đối chiếu, tìm ra
những điểm chưa thống nhất, chưa phù hợp trong pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; những điểm bất cập còn tồn tại giữa
thực tiễn khi thi hành với các quy định của pháp luật.
- Phương pháp phân tính, diễn dịch, tổng hợp, quy nạp: sử dụng khi
nghiên cứu một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn thành phố Lai Châu.
6. Những kết quả nghiên cứu đạt được
Qua đề tài nghiên cứu, những khía cạnh chủ yếu của luận văn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn như sau:
Thứ nhất, luận giải những cơ sở lý luận tiền đề về bồi thường, hỗ trợ và

5
pháp luật điều chỉnh bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
nhằm đảm bảo nghiên cứu, đánh giá hệ thống pháp luật thực định về vấn đề
này một cách có cơ sở.
Thứ hai, đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực trạng áp dụng mảng
pháp luật này trên địa thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu; đồng thời, Luận
văn cũng chỉ ra được những đặc điểm riêng có của thành phố Lai Châu khác
so với các địa phương khác, nhằm tìm ra được những đòi hỏi cần có trong vấn
đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Từ đó, chỉ ra những bất
cập, tồn tại và chỉ ra được nguyên nhân của những tồn tại đó trong các quy định
của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Thứ ba, đề xuất những định hướng và các giải pháp cụ thể góp phần tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp nói chung và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa thành phố Lai Châu nói riêng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, thì
luận văn có bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật về bồi thường đất, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu,
tỉnh Lai Châu.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại
thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu.

6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

1.1. Lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đất nông nghiệp
* Khái niệm đất nông nghiệp:
Theo FAO (tổ chức Nông lương của Liên Hiệp Quốc) thì phân chia đất
nông nghiệp thành các phần sau đây: Đất canh tác như đất trồng cây hàng
năm, chẳng hạn như ngũ cốc, bông, khoai tây, rau, dưa hấu, loại hình này
cũng bao gồm cả đất sử dụng được trong nông nghiệp nhưng tạm thời bỏ
hoang (đất hoang hóa, đất thoái hóa); đất vườn cây ăn trái và những vườn nho
hay cánh đồng nho (thông dụng ở châu Âu); Đất trồng cây lâu năm; Cánh
đồng, thửa ruộng và đồng cỏ tự nhiên cho chăn thả gia súc. Đất nông nghiệp
cấu thành chỉ là một phần của lãnh thổ của bất kỳ quốc gia, trong đó ngoài
cũng bao gồm các khu vực không thích hợp cho nông nghiệp, chẳng hạn như
rừng, núi, và các vùng nước nội địa. Đất nông nghiệp bao gồm 38% diện tích
đất của thế giới, với diện tích đất trồng đại diện cho ít hơn một phần ba đất
nông nghiệp (11% diện tích đất của thế giới).[1]
Khi nói đất nông nghiệp người ta nghĩ đến đất được sử dụng chủ yếu
vào sản xuất của ngành nông nghiệp, bởi vì trên thực tế có trường hợp đất đai
được sử dụng vào những mục đích khác nhau của các ngành. Trong trường
hợp đó, đất đai được sử dụng chủ yếu cho mục đích hoạt động sản xuất nông
nghiệp mới được coi là đất nông nghiệp nếu không là các loại đất khác (tuỳ
theo việc sử dụng vào mục đích nào là chính). Tuy nhiên, để sử dụng đầy đủ
hợp lý ruộng đất, trên thực tế người ta coi đất đai có thể tham gia vào hoạt

7
động sản xuất nông nghiệp mà không cần có sự đầu tư nào lớn cả là đất nông
nghiệp cho dù đất đó đã đưa vào sản xuất nông nghiệp hay chưa.
Theo Luật Đất đai năm 2003 tiêu chí sử dụng để phân loại đất, đất đai
được chia thành các nhóm: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và nhóm đất
chưa sử dụng. Căn cứ vào mục đích sử dụng đất, thì Luật Đất đai năm 2003
đưa ra khái niệm đất nông nghiệp rộng hơn là “nhóm đất nông nghiệp”
Luật Đất đai năm 2013 vẫn tiếp tục giải thích đất nông nghiệp dưới
dạng nhóm đất nhưng cụ thể hơn bao gồm: đất trồng cây hàng năm, đất trồng
cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất
nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác theo quy định của
Chính phủ.
Hiểu rõ về khái niệm đất nông nghiệp là yêu cầu thực tế trong đời sống
sản xuất của người dân cũng như trong quản lý hoạch định chính sách của
Nhà nước. Nhất là trong việc quản lý đất đai, để có những quyết định đúng
đắn và hợp lý trong quản lý, đầu tư, giải quyết chế độ, chính sách phù hợp cho
người dân thì việc xác định đất nông nghiệp là rất quan trọng. Vì vậy, để tìm
hiểu đầy đủ pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp thì ta cần xác định rõ khái niêm đất nông nghiệp.
* Đặc điểm cơ bản của đất nông nghiệp:
Ở mỗi quốc gia, đất đai đều được sử dụng vào nhiều mục đích khác
nhau, riêng đất nông nghiệp có những đặc điểm cơ bản giống nhau, được biểu
hiện cụ thể:
Một là, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu.
Tài nguyên đất đai của quốc gia là đặc biệt quan trọng, là nguồn vốn to
lớn của đất nước. Đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp thì đất đai là tư liệu
sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Vì đất nông nghiệp vừa là tư liệu
lao động vừa là đối tượng lao động.

8
Hai là, đất nông nghiệp thường tập trung diện tích lớn ở các vùng nông
thôn ở các tỉnh đồng bằng (đối với đất nông nghiệp lúa nước, đất trồng cây
hàng năm và lâu năm, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản); ở trung du và
miền núi lại chủ yếu tập trung đất trồng cây lâu năm và đất trồng rừng, đất
nương rẫy, đất thăm dò và khai thác khoáng sản. Điều này khác hoàn toàn với
đất nông nghiệp ở đô thị, thường xen kẽ ở với các loại đất phi nông nghiệp là
đất ở, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, đất xây dựng trụ sở cơ quan,
đơn vị hành chính sự nghiệp. Đất nông nghiệp ở đô thị thường tập trung ở
một số loại đất như đất rau màu, đất trồng hoa, cây cảnh, đất khuôn viên cây
xanh để phục vụ chức năng của các đô thị như nhu cầu du lịch và hệ thống
cây xanh phòng hộ môi trường.
Ba là, cùng một chủ thể có thể sử dụng kết hợp nhiều loại đất nông
nghiệp khác nhau trong tổng thể các loại đất trong nhóm đất nông nghiệp.
Ví dụ như đất trồng cây lâu năm có kết hợp với nuôi trồng thủy sản;
hay việc chuyển đổi từ đất chuyên lúa sang nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với
trồng cây ăn quả. Do đặc điểm này mà xu hướng được Nhà nước khuyến
khích để các hộ gia đình, cá nhân tăng gia sản xuất, làm giàu trên đất nông
nghiệp đó là phát triển sản xuất theo mô hình của kinh tế trang trại để tập
trung đất đai, tập trung sức lao động, tập trụng nguồn vốn để phát triển sản
xuất, thâm canh tăng vụ, nâng cao năng suất sản xuất và xóa bỏ phương thức
sản xuất nhỏ lẻ, tiểu nông, gắn chặt với kiểu sản xuất tự cung, tự cấp.
Bốn là, đất nông nghiệp trong thời điểm hiện tại về cơ bản vẫn gắn với
sản xuất của kinh tế hộ mà chưa thực sự thúc đẩy và thu hút được nhiều đối
với các doanh nghiệp tập trung sản xuất vào lĩnh vực nông nghiệp.
Đất nông nghiệp được sử dụng trong kinh tế hộ nhỏ lẻ vẫn chiếm tỷ
trọng cao và bộc lộ những hạn chế, yếu kém như năng suất, chất lượng một số
nông sản thấp, chi phí cao, khả năng cạnh tranh thấp. Để tạo những bước tiến

9
mới cho nông nghiệp, thì Nhà nước có sự khuyến khích nông dân tập trung
đất nông nghiệp phá thế manh mún, phục vụ sản xuất nông nghiệp quy mô
lớn cùng với đó có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.
Năm là, đất nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm sút mạnh do tốc
độ đô thị hóa nhanh chóng khiến tất yếu phải chuyển dịch một lượng lớn đất
nông nghiệp sang thực hiện sự nghiệp này.
Nền nông nghiệp ở nước ta còn nghèo nàn và lạc hậu. Để khắc phục
nguy cơ tụt hậu thì phải thực hiện CNH - HĐH, xây dựng hệ thống hạ tầng xã
hội và hạ tầng kỹ thuật, muốn vậy điều tất yếu là phải thu hồi đất nông
nghiệp. Bởi vậy đã khiến cho đất nông nghiệp bị thu hẹp, gây ảnh hưởng vừa
tích cực vừa tiêu cực đến việc làm và sinh kế của người nông dân. Đó cũng là
lý do của nhiều nghiên cứu chuyên sâu về thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ
cho người mất đất nông nghiệp để họ ổn định lại cuộc sống.
Sáu là, đất nông nghiệp có chất lượng không đồng đều.
Đất nông nghiệp không đồng nhất về chất lượng do sự khác nhau giữa
các yếu tố dinh dưỡng vốn có của nó. Đó là kết quả một mặt là của quá trình
hình thành đất, mặt khác quan trọng hơn là quá trình canh tác của con người.
Độ màu mỡ của đất nông nghiệp nói lên khả năng cung cấp dinh dưỡng cho
cây trồng. Con người không những chỉ sử dụng độ màu mỡ tự nhiên của đất,
mà còn có khả năng làm tăng thêm độ màu mỡ của đất. Ngược lại, nếu sử
dụng không hợp lý thì làm giảm độ màu mỡ của tự nhiên. Thực tế này đã diễn
ra ở một số vùng miền núi và trung du nước ta. Ở những vùng này, trước đây
con người chỉ lợi dụng độ màu mỡ tự nhiên vốn có của đất đai để canh tác,
không chú ý bồi dưỡng, cải tạo nên đất bị bạc màu, một số diện tích trước đây
có độ màu mỡ cao nay đã kiệt quệ. Vì vậy trong quá trình sở dụng, khai thác
đất nông nghiệp cần thiết phải thường xuyên cải tạo và bồi dưỡng cho đất.

10
1.1.2. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Với mục đích phục vụ quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế, xã hội vì
lợi quốc gia, công cộng thì Nhà nước phải thu hồi đất nông nghiệp. Và việc
thu hồi đất này là vì mục đích chung của cả đất nước mà không do lỗi của
người sử dụng đất; đồng thời, người sử dụng đất phải chịu những thiệt thòi,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp khi bị thu hồi đất. Do vậy, Nhà
nước phải thực hiện trách nhiệm bồi thường theo các quy định của pháp luật
đất đai.
“Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất
đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”[16, Khoản 12 Điều 3].
Khái niệm nêu trên chỉ xác định bồi thường về đất, trong khi việc thu hồi đất
còn gây những thiệt hại liên quan đến các tài sản khác gắn liền trên đất như
nhà cửa, công trình sinh hoạt, cây cối, hoa màu…
Căn cứ để xác định việc bồi thường: xác định những thiệt hại chủ yếu
từ việc thu hồi đất có thể thấy được như thiệt hại về đất, thiệt hại về cây trồng
và hoa màu trên đất... Song trên thực tế, chưa tính toán được các thiệt hại
khác do phải thu hoạch sớm, bán với giá rẻ hơn các loại vật nuôi trên mặt đất,
dưới nước mà chưa đến kỳ được thu hoạch.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về bồi thường như
sau: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả cho người có
đất bị thu hồi và các chủ thể bị thiệt hại trong quá trình thu hồi đất những
thiệt hại về quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu, sử dụng đối với công trình,
vật kiến trúc, cây trồng, vật nuôi và những thiệt hại khác do việc thu hồi đất
gây ra”[10]
* Đặc điểm của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Thứ nhất, phản ánh chế độ sở hữu đất đai của quốc gia và bản chất, vai
trò của Nhà nước

11
Từ việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp có thể đánh
giá được nhà nước có làm tròn vai trò là “đại diện chủ sở hữu” về đất đai, có
thực sự vì lợi ích của nhân dân lao động hay không?
Thứ hai, bồi thường là trách nhiệm của Nhà nước
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà
nước thể hiện vai trò quản lý ở nhiều khía cạnh trong đó có trách nhiệm bồi
thường khi thu hồi đất nông nghiệp.
Thứ ba, bồi thường xuất phát từ việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
để sử dụng vào mục đích quốc phòng - an ninh, lợi ích quốc gia, công cộng và
mục đích phát triển kinh tế - xã hội
Ngoài mục đích trên, người có đất nông nghiệp được sử dụng ổn định
và lâu dài. Trừ trường hợp chuyển giao quyền sử dụng đất nông nghiệp
(không qua thu hồi đất nông nghiệp) thì thực hiện qua các giao dịch mua bán,
tặng cho và chuyển nhượng thông thường.
Thứ tư, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không chỉ
liên quan đến lợi ích của Nhà nước mà còn liên quan trực tiếp đến lợi ích của
người sử dụng đất nông nghiệp bị thu hồi và những đối tượng hưởng lợi khác.
Bồi thường luôn là vấn đề quan trọng trong quá trình thực hiện của mỗi
dự án.Vì nếu việc bồi thường diễn ra nhanh chóng, đúng pháp luật, đúng tiến
độ thì dự án sẽ được triển khai kịp thời, hiệu quả và ngược lại.
1.1.3. Khái niệm về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước trợ giúp
một phần nào đó cho người có đất bị thu hồi để ổn định đời sống, phát triển
sản xuất. Hỗ trợ là việc Nhà nước trợ giúp thêm để giải quyết những vấn đề
còn tồn tại sau khi đã thực hiện bồi thường về mặt tài sản. Vì khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp, ngoài việc mất đất, thiệt hại đối với người dân còn
hiện hữu là về giá trị quyền sử dụng đất, vật nuôi, cây trồng và các thiệt hại

12
vô hình khác như thiệt hại về mặt tinh thần, mất ổn định cuộc sống, phải học
nghề mới, mất đi tư liệu sản xuất gắn bó từ bao đời,…
Như vậy, có thể hiểu hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là
việc giúp đỡ người dân thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới,…
giúp đỡ một phần nào rủi ro mà họ phải gánh chịu; đồng thời giúp cho người
bị thu hồi đất nhanh chóng ổn định đời sống, sản xuất và kinh doanh.
* Đặc điểm của hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Thứ nhất, bản chất của hỗ trợ là việc Nhà nước giải quyết các hệ quả
còn tồn tại xảy ra sau bồi thường trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp
Hỗ trợ nhằm lấp đầy những khoảng trống chưa giải quyết được còn tồn tại
sau khi đã thực hiện bồi thường. Do, khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì
người dân bị thu hồi đất mất kế sinh nhai, đảo lộn cuộc sống bình yên, thất nghiệp.
Thứ hai, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mang tính chất
xã hội, nhân văn. Những chính sách mà Nhà nước đã xây dựng để thực hiện
công tác hỗ trợ hiện nay như: hỗ trợ khi di chuyển hay đào tạo, để ổn định
cuộc sống, để chuyển đổi nghề nghiệp,...
Thứ ba, với bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân thì hỗ trợ là
chủ trương đúng đắn và phù hợp. Đây là một chính sách làm cho việc thực thi
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được hoàn chỉnh và có hiệu
quả hơn.
1.1.4. Phân biệt bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Từ đặc điểm của bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp nêu trên và qua nghiên cứu tìm hiểu, có thể thấy sự khác biệt như sau:
Một là, đối tượng của bồi thường là các thiệt hại thấy được từ việc thu
hồi đất của Nhà nước gây ra đối với những người bị thu hồi đất nông nghiệp.
Còn đối tượng của hỗ trợ là giải quyết các hệ quả mang tính xã hội, phát sinh
trực tiếp khi thực hiện thu hồi đất nông nghiệp.

13
Hai là, bồi thường là trách nhiệm của Nhà nước đối với những thiệt hại
từ việc thu hồi đất của mình gây nên. Nhưng hỗ trợ lại thể hiện trách nhiệm xã
hội, tính nhân văn của nhà nước mong muốn giúp người dân có đất nông
nghiệp bị thu hồi nhanh chóng ổn định cuộc sống.
Ba là, việc thực hiện bồi thường là xem xét toàn bộ thiệt hại từ vấn đề
thu hồi đất nông nghiệp của Nhà nước gây ra. Đối với việc thực hiện hỗ trợ
thì xem xét hoàn cảnh, mức độ khó khăn, sự thiếu thốn trong thực tế của
người dân từ đó đưa ra điều kiện hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ.
1.1.5. Tính tất yếu khách quan của thu hồi đất nông nghiệp và những tác
động và ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đối với đời sống của
người nông dân
1.1.5.1. Tính tất yếu khách quan của thu hồi đất nông nghiệp
Nhà nước đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý đất đai nói chung và
đất nông nghiệp nói riêng bằng cách giao đất cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia
đình sử dụng ổn định lâu dài. Nhằm mục đích chung như quốc phòng, an
ninh; lợi ích quốc gia, công cộng, thì Nhà nước phải thu hồi đất của người sử
dụng đất. Do đó, thu hồi đất nói chung và thu hồi đất nông nghiệp nói riêng là
việc mang tính tất yếu, xuất phát từ những lý do:
Thứ nhất, với mục tiêu phấn đấu nước ta trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nước, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng
bộ, hiện đại, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đi đôi với cải cách thể
chế chính trị v.v. Do vậy, việc chuyển một phần đất nông nghiệp sang sử
dụng vào mục đích khác là điều không tránh khỏi. Nhà nước cần thiết phải
thực hiện việc thu hồi đất nông nghiệp của người sử dụng đất để đưa một
phần đất nông nghiệp thích hợp sang sử dụng cho các yêu cầu CNH - HĐH
đất nước.

14
Thứ hai, yêu cầu đặt ra với Nhà nước là phải xây dựng hệ thống hạ tầng
kỹ thuật và hệ thống hạ tầng xã hội nhằm cải thiện, giúp nâng cao đời sống
của người dân; cùng với đó là sự tăng trưởng kinh tế, quá trình đô thị hóa
được thúc đẩy ngày càng cao. Điều này dẫn đến việc Nhà nước phải thu hồi
đất đang sử dụng (trong đó có khá nhiều diện tích đất nông nghiệp) để chuyển
sang mục đích khác. Tuy nhiên, vấn đề cần phải giải quyết đó là việc thu hồi
đất nông nghiệp phải được lập kế hoạch cụ thể chi tiết nhằm đảm bảo hài hòa
giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với bảo đảm an ninh lương thực quốc
gia; giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định xã hội. Chính vì vậy, không thể phát
triển công nghiệp bằng mọi giá mà phải cẩn trọng, biết trân trọng đối với đất
nông nghiệp.
Thứ ba, do nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp vì vậy
việc thu hồi đất nông nghiệp còn nhằm mục đích sử dụng đất một cách hệ
thống và hiệu quả hơn. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp người dân sử dụng
để đất nông nghiệp bị hoang hóa, không khai thác hết được giá trị sử dụng của
đất nông nghiệp, cho thuê nhưng sử dụng không đúng mục đích hoặc do đất
nông nghiệp đó không còn đáp ứng được yêu cầu cho mục đích trồng trọt, ví
dụ đất có độ dốc cao, xói mòn, bạc màu, cằn cỗi,… Do đó, việc quy hoạch,
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp cần phải được đặt ra để đảm
bảo cho việc sử dụng đất hiệu quả, cũng như quyền lợi của người sử dụng đất.
Việc thu hồi đất nông nghiệp cũng sẽ nhận được sự đồng tình, nhất trí
của người có đất nông nghiệp bị thu hồi nếu đúng thực sự đất đó được sử
dụng cho mục đích đô thị hóa đất nước và cùng với đó Nhà nước thực hiện
các chính sách bồi thường, hỗ trợ cách thỏa đáng, hơn thế nữa là bố trí việc
làm cho người dân gắn với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lí.
1.1.5.2. Ảnh hưởng của việc thu hồi đất đối với đời sống của người nông dân
Về mặt pháp lý thu hồi đất nông nghiệp cũng giống như việc thu hồi

15
các loại đất khác vì việc này sẽ làm chấm dứt quyền sử dụng đất của cá nhân,
hộ gia đình, tổ chức. Như đã phân tích về đặc điểm của đất nông nghiệp là tư
liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu, thì hệ quả của việc thu hồi đất nông nghiệp
là rất lớn và nhất là những ảnh hưởng tới đời sống của người nông dân.
Thứ nhất, ảnh hưởng tới thu nhập, việc làm của người nông dân
Người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi sẽ chịu thiệt hại về việc mất đi
quyền sử dụng đất cũng như các kết quả đầu tư trên đất từ trước đó do không
được hưởng lợi tức phát sinh từ đất, từ khai thác hoa màu,... So với các loại
đất khác, thiệt hại khi thu hồi đất nông nghiệp về công trình hạ tầng, công
trình kiến trúc không lớn như đất ở, các loại đất phi nông nghiệp khác; tuy
nhiên, đất nông nghiệp với vai trò là tư liệu sản xuất chính trong nông nghiệp,
những thiệt hai về cây cối, hoa màu, nông sản, lợi tức trong tương lai rất lớn.
Hơn nữa, để sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp, người sử dụng phải đầu
tư thêm vào đất, làm tăng thêm màu mỡ cũng như giá trị dinh dưỡng của đất
nông nghiệp để giúp phù hợp với các từng loại hình sản xuất nông nghiệp
khác nhau. Có thể nói, các chi phí đầu tư vào đất và người sử dụng đất nông
nghiệp bỏ ra như phí san lấp mặt bằng, phí tôn tạo đất được giao,… là không
hề nhỏ. Khi thu hồi đất nông nghiệp cần phải có sự xem xét chính xác các
khoản chi phí đầu tư này dựa trên việc xác minh các hồ sơ, chứng cớ chứng
minh việc đầu tư là có thật hay không để thực hiện bồi thường đúng quy định.
So với việc thu hồi các loại đất khác, thu hồi đất nông nghiệp không chỉ
gây thiệt hại trước mắt mà còn có ảnh hưởng lâu dài do khó có sự thay đổi,
chuyển đổi việc làm cho người nông dân và nếu không có nguồn thay thế thì
thu nhập bị giảm rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng, hộ sẽ bị nghèo đói.
Thứ hai, ảnh hưởng tới cảm xúc, tình cảm của người dân khi phân chia
lợi ích không công bằng
Việc thu hồi đất nông nghiệp có ảnh hưởng lớn đến đời sống, tâm lý

16
của người nông dân, đa số người dân đều mong muốn được hỗ trợ để sớm ổn
định sản xuất và đời sống. Việc hỗ trợ lại chủ yếu được thực hiện dưới hình
thức hỗ trợ bằng tiền.
Thứ ba, ảnh hưởng tới sinh hoạt, cuộc sống hàng ngày của người nông
dân, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với thế hệ tương lai
Với tâm lý, thói quen tiêu sài của người dân khi bỗng chốc nhận được
một khoản tiền tương đối lớn, một bộ phận không nhỏ sử dụng cho các nhu
cầu sinh hoạt, tiêu dùng, không có cách sử dụng hợp lý cho việc học nghề,
chuyển đổi việc làm. Khi số tiền đền bù đã hết, họ sẽ không còn nguồn thu
nhập nào mang tính ổn định. Do đó, chưa thực sự đảm bảo được về vấn đề
phát triển ổn định, bền vững đối với đời sống vật chất và tinh thần của hộ bị
thu hồi đất.
Đáng lo ngại là số người trẻ tuổi thất nghiệp chiếm tỷ lệ không nhỏ, mà
đa phần việc thu hồi đất nông nghiệp lại chỉ tác động mạnh tới việc làm của
những người trên 35 tuổi, có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp không cao do
hạn chế về mặt trình độ, khó tiếp thu kiến thức mới.
Mặt khác, với khoản bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình làm nông
nghiệp đã thay đổi điều kiện sống tốt hơn cho con em họ trong một khoảng
thời gian nhất định. Nhưng gia đình có điều kiện thì chí tiến thủ của những
đứa trẻ bị giảm sút đi rất nhiều và lối sống chơi bời, bỏ học khi chưa hết phổ
thông. Như vậy, có thể trong tương lai gần sẽ hình thành một lớp người có
trình độ văn hóa hạn chế, không thích lao động do tư tưởng thích hưởng thụ.
Qua phân tích trên cho thấy, nguy cơ cao tiềm ẩn đó là tái nghèo, ảnh
hưởng tới lực lượng lao động kế cận của các hộ gia đình bị thu hồi đất.
1.1.6. Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp
Như trên đã phân tích, hệ quả tất yếu của các quyết định thu hồi đất đều

17
tác động sâu rộng tới mọi mặt đối với người có đất bị thu hồi, quyền và lợi ích
hợp pháp của người sử dụng đất trực tiếp bị xâm hại. Với quan niệm “an cư
lạc nghiệp” của người Việt Nam thì việc bị mất đất đai đối với người có đất
nông nghiệp bị thu hồi thực sự là một “cú sốc” rất lớn. Vì vậy, thực hiện tốt
việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và đất nông
nghiệp nói riêng là rất quan trọng vì sẽ giúp cho người dân mau ổn định cuộc
sống để tập trung sản xuất, cải thiện và nâng cao mức sống. Hơn nữa, việc
thực hiện bồi thường, hỗ trợ còn làm củng cố thêm niềm tin của người dân
vào chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
được thực hiện hiệu quả sẽ tạo điều kiện để việc giải phóng mặt bằng đúng
tiến độ cho doanh nghiệp sớm triển khai các dự án đầu tư, từ đó giúp thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, đó cũng là điều kiện để thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, đẩy mạnh công cuộc “xóa đói, giảm nghèo” do duy trì được
tốc độ tăng trưởng cao và bền vững.
1.2. Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp
Pháp luật là hệ thống các nguyên tắc, các quy phạm điều chỉnh các
quan hệ pháp luật. Theo đó, mọi các quan hệ nảy sinh trong đời sống xã hội ở
các mức độ khác nhau đều được điều chỉnh bằng pháp luật, đặc biệt là nước ta
với định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Pháp luật
không phải là công cụ duy nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội song với tính
quyền lực, quyền uy, hiệu lực bắt buộc và khả năng thi hành bằng sức mạnh
của Nhà nước và cơ chế thực thi cụ thể và hiệu quả nên pháp luật trở thành
công cụ hữu hiệu nhất điều chỉnh các quan hệ xã hội.

18
Trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường là vấn đề phức tạp, nhiều khiếu
nại, khiếu kiện phát sinh từ lĩnh vực này bởi chúng trực tiếp tác động tới
nguồn sống, việc làm, sinh kế và sự ổn định mọi mặt của đời sống gia đình.
Bởi vậy, phát luật điều chỉnh vấn đề bồi thường là vô cùng cần thiết nhằm tạo
ra hành lang pháp lý hướng mọi chủ thể thực thi một cách có trật tự trên cơ sở
hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư.
Đặc điểm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp:
- Do chế độ sở hữu toàn dân về đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở
hữu và Nhà nước có quyền phân bổ, điều chỉnh đất đai cho các mục tiêu kinh
tế, xã hội, tránh sự lạm quyền, tùy tiện trong thu hồi và bồi thường đất bị thu
hồi. Vì thế, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp có
chịu sự tác động và chi phối.
- Cơ sở để bồi thường trong pháp luật hiện hành về thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân dựa trên những thiệt hại về vật chất mà người
nông dân phải gánh chịu khi Nhà nước thu hồi đất.
- Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
được hoàn thiện theo hướng đảm bảo tốt nhất lợi ích ba bên(Nhà nước, doanh
nghiệp và người bị thu hồi đất nông nghiệp). Đặc biệt quan tâm đến người
dân có đất nông nghiệp bị thu hồi. Ở mỗi địa phương khác nhau, khi thực
thiện bồi thường đối với hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp, bên
cạnh việc tuân thủ pháp luật chung cần thiết phải chú trọng đến đặc điểm và
yếu tố vùng miền, địa phương để có những định hướng và giải pháp cho phù
hợp, linh hoạt và hiệu quả.
1.2.2. Pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
“Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người
có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”[16, Khoản 14,
Điều 3]

19
Có thể hiểu, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là việc giúp
đỡ người dân bi ̣thu hồi đất nông nghiệp ổn định đời sống, sản xuất và phát
triển thông qua một số hoạt động như giúp người dân học và tiếp cận với nghề
mới, bố trí, tìm kiếm việc làm phù hợp cho từng đối tượng khác nhau....
Đặc điểm pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp:
- Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là tổng hợp
các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình Nhà
nước tiến hành hỗ trợ cho người dân khi thu hồi đất nông nghiệp.
- Pháp luật về hỗ trợ hiện hành căn cứ từ những thiệt hại phi vật chất từ
việc thu hồi đất trong tương lai mà các hộ gia đình, cá nhân phải đối mặt và
cũng xuất phát từ những yêu cầu cần phải ổn định đời sống, kinh tế của người
bị thu hồi đất nông nghiệp.
Theo lý luận pháp luật nói chung, thì pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá
nhân. Đây là một nội dụng quan trọng trong pháp luật đất đai, và có ý nghĩa
quan trọng trong thực tế về thu hồi đất ở nước ta hiện nay.
Trên đây là những vấn đề mang tính lý luận của pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để có thể đi sâu, đanh giá
những quy định trên.
1.2.2. Cơ cấu pháp luật điều chỉnh về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp
Thứ nhất, nhóm quy phạm quy định về nguyên tắc và điều kiện bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
Nguyên tắc là phương hướng chủ đạo, là những định hướng để các chủ
thể tham gia bất kỳ một quan hệ nào đó phải tuân theo. Nguyên tắc bồi

20
thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là phương hướng chủ đạo để các
cơ quan có thẩm quyền thực hiện công tác thu hồi đất, bồi thường và giải
phóng mặt bằng, cũng như các chủ thể có đất bị thu hồi, cùng các chủ thể đầu
tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất phải thực hiện, tuân thủ; tôn trọng
các nguyên tắc đã đặt ra và không được làm trái, làm khác. Thu hồi đất là
lĩnh vực nhạy cảm, có tác động tới đời sống của người dân, nếu không nhận
được sự đồng thuận của người dân thì sẽ dẫn tới sự bất ổn định về chính trị,
xã hội; vì vậy, nguyên tắc được đặt ra buộc quá trình tổ chức thực thi trong
công tác thu hồi đất nói chung và bồi thừơng, hỗ trợ khi thu hồi đất nông
nghiệp nói riêng trước hết đòi hỏi từ phía Nhà nước phải quan tâm, chú trọng
tới quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi, giúp họ phải tạo lập
ổn định được cuộc sống, việc làm và tâm lý yên tâm sau thu hồi đất. Mặt
khác, việc tổ chức bồi thường, tái định cư phải được tiến hành nhanh chóng,
kịp thời, dân chủ, công khai để đảm bảo tính khách quan, để dân tham gia
kiểm tra công việc của Nhà nước.
Chủ thể sử dụng đất có nguồn gốc vô cùng phong phú và đa dạng; về
nguyên tắc, khi Nhà nước thu hồi đất của những người đang sử dụng đất cho
các mục đích của Nhà nước mà gây thiệt hại về vật chất cho người sử dụng
đất thì trách nhiệm của Nhà nước phải bồi thường, hỗ trợ. Tuy nhiên, cơ sở để
hình thành quyền sử dụng đất đối với người có đất bị thu hồi là hết sức đa
dạng, phong phú. Có chủ thể được Nhà nước giao, cho thuê, có chủ thể được
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất; có chủ thể sử dụng đất nông nghiệp,
có chủ thể sử dụng đất phi nông nghiệp; có chủ thể sử dụng chỉ thuần túy là
đất, có chủ thể sử dụng bao gồm cả tài sản gắn liền với đất; có chủ thể sử
dụng đất hợp pháp, hợp lệ, có chủ thể sử dụng đất bất hợp pháp. Vì vâỵ, khi
thu hồi đất, không phải ai cũng được bồi thường, hỗ trợ theo kiểu cào bằng
“cứ bị Nhà nước thu hồi là được bồi thường” mà việc xem xét để được bồi

21
thường, hỗ trợ hay không, ở mức nào thì sự cần thiết phải quy định các điều
kiện cụ thể để trên cơ sở đó, cơ quan có thẩm quyền xét và phê duyệt phương
án bồi thường, hỗ trợ phù hợp, công bằng, khách quan và chính xác. Điều
kiện đặt ra khi bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cũng
nhằm xóa bỏ tình trạng gian lận khi thực hiện thu hồi đất, bồi thường và giải
phóng mặt bằng.
Thứ hai, nhóm quy phạm quy định về nội dung bồi thường, hỗ trợ đối
với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Nội dung bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề quan
tâm bậc nhất của người có đất bị thu hồi trong toàn bộ chế định có liên quan
tới thu hồi đất và giải phóng mặt bằng, bởi nội dung này thể hiện trực tiếp
nhất, cho người có đất bị thu hồi biết họ sẽ được Nhà nước bù đắp về những
thiệt hại vật chất bằng phương thức nào, mức bù đắp về vật chất và tinh thần
đó có giúp họ tái lập được cuộc sống mới ổn định và hợp lý hay không, có
thực sự hài hòa lợi ích và hướng tới bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị thu hồi đất không. Theo đó, nội dung bồi thường, hỗ trợ sẽ thể hiện
phương thức bồi thường nào được áp dụng: bằng đất hay bằng tiền, chính
sách hỗ trợ nào được thực thi, có hay không sự “tự nguyện” hỗ trợ của nhà
đầu tư cùng với nhà nước đối với người có đất bị thu hồi. Và quan trọng hơn,
mức bồi thường, hỗ trợ cụ thể là bao nhiêu; Phương thức chi trả bồi thường,
hỗ trợ thực hiện cụ thể ra sao; Có hay không quyền được lựa chọn của người
có đất bị thu hồi đối các phương thức bồi thường, hỗ trợ của Nhà nước đặt
ra... Tất cả các nội dung này đều được thể hiện rõ phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ ba, nhóm quy phạm quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ
trợ đối với hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp
Đây là nhóm quy phạm hướng tới việc hướng dẫn các cơ quan thực thi

22
pháp luật về bồi thường và giải phóng mặt bằng cũng như các chủ thể có đất
bị thu hồi phải tuân thủ các bước và quy trình mà pháp luật quy định để đảm
bảo các quy định được thực hiện đúng và đầy đủ, hướng tới công tác bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện trong một trật tự ổn định, hợp pháp
nhằm tăng cường tính pháp chế trong lĩnh vực này.
Trong nhóm quy phạm này quy định về: Lập, bổ sung, thẩm định, thực
hiện phương án bồi thường, cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Thứ tư, nhóm quy phạm quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải
quyết tranh chấp liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp.
Khiếu nại, tố cáo về quyết định hành chính, hành vi hành vi hành chính
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho
mình khi người khiếu nại cho rằng, quyết định và hành vi đó là trái pháp luật,
xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của họ. Theo quy định trong Hiến pháp
năm 2013 thì đây là quyền cơ bản của công dân.
Thu hồi đất có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người có đất bị thu hồi nên quyền khiếu nại, tố cáo để thể hiện sự không đồng
tình, bất bình trước các quyết định của Nhà nước được tận dụng tối đa nhằm
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi hoặc hủy bỏ các quyết định
trước đó để thay thế bằng một quyết định khác trên cơ sở yêu cầu, đề nghị của
họ. Vì vậy, đây là quyền được đại đa số người có đất bị thu hồi tận dụng tối
đa quyền này để nhằm bảo vệ cho mình khi Nhà nước thu hồi đất. Thực tế cho
thấy, dù khiếu nại, tố cáo của người có đất bị thu hồi đúng hay không, có cơ
sở hay không có cơ sở thì khiếu nại, tố cáo của người bị thu hồi đất đều phải
được xem xét trả lời hoặc giải quyết. Nếu xem nhẹ thì trong nhiều trường hợp vụ
việc sẽ làm sâu hơn về sự mâu thuẫn, bất đồng, theo đó, gây nên sự bất ổn về xã

23
hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
1.2.3. Các yếu tố tác động, chi phối tới pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp
Thứ nhất, quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng và hoàn thiện
chính sách, pháp luật đất đai nói chung và chính sách, pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói riêng.
Về mặt lý luận, pháp luật là sự thể chế hoá những quan điểm, đường
lối, chủ trương của Đảng; là sự định hướng về mặt chính trị cho hoạt động lập
pháp ở nước ta. Các hoạt động xây dựng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phải dự trên các quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước về chính sách, pháp luật
đất đai.
Như vậy, quan điểm, đường lối của Đảng có tác động trực tiếp đến quá
trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói riêng.[21]
Thứ hai, nội dung các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp chịu sự tác động của chế độ sở hữu toàn
dân về đất đai thể hiện ở một số khía cạnh:
Một là, Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất có bồi thường, hỗ trợ cho
người bị thu hồi đất trong trường hợp cần thiết khi Nhà nước cần sử dụng đất
vì mục đích quốc phòng, an ninh; lợi ích quốc gia,… Còn như các nước có
chế độ sở hữu tư nhân về đất đai thì Nhà nước phải đi mua đất từ chủ đất.
Hai là, căn cứ vào khung giá đất do Nhà nước xác định tại thời điểm
thu hồi đất để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất
nông nghiệp.
Ba là, những người sử dụng đất nông nghiệp chỉ được bồi thường, hỗ
trợ khi đáp ứng đủ các điều kiện của pháp luật đã quy định.

24
Bốn là, các cơ quan được pháp luật quy định mới có đủ thẩm quyền để
thực hiện việc thu hồi đất nông nghiệp.
Thứ ba, cơ chế quản lý kinh tế: Trong thời kỳ bao cấp, đất đai không
được coi là một loại tài sản do đó, pháp luật nghiêm cấm mua bán, chuyển
nhượng đất đai. Trong thời kỳ này, giá trị của đất đai còn thấp nên vấn đề bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất chưa gặp những khó khăn, phức tạp, người
dân chỉ được hưởng bồi thường theo giá do Nhà nước ấn định và hệ thống
pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất còn đơn giản.
Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước quản lý kinh tế theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai là một trong những tài sản mang
lại giá trị kinh tế cao cho người sử dụng; vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp được đại bộ phận nhân dân quan tâm; sự phát triển kinh
tế dẫn đến nhiều dự án cần thu hồi đất nông nghiệp. Do đó, hệ thống pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ngày càng đầy đủ và
toàn diện. Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay đòi hỏi pháp luật phải xác định giá
để bồi thường cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi theo giá thị trường.
Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là một quá trình quá trình liên kết, gắn kết vì mục tiêu
phát triển quốc gia nhằm đạt được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó. Sự
phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và kinh tế thị trường đòi hỏi các
quốc gia phải mở rộng thị trường, hình thành thị trường khu vực và quốc tế
nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế đang trở thành xu
thế chủ đạo trong sự phát triển, tác động mạnh mẽ đến đời sống của từng quốc
gia và quan hệ quốc tế.
Hiện nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn hàng đầu trong quy định chính
sách của hầu hết các quốc gia. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc
tế mạnh mẽ, quá trình hội nhập này ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế, chính

25
trị, văn hóa, xã hội trong nước. Lĩnh vực pháp luật cũng chịu ảnh hưởng sâu
sắc từ quá trình hội nhập quốc tế, có những quy phạm pháp luật của luật pháp
quốc tế được nội địa hóa hoặc các quy phạm pháp luật của Việt Nam được
sửa đổi, bổ sung để phù hợp với luật pháp quốc tế. Đặc biệt là về lĩnh vực liên
quan đến việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
- Thông qua hội nhập quốc tế, nước ta tiếp cận những kinh nghiệm về
quản lý đất đai và bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp của các nước trên
thế giới trong quá trình xây dựng và ban hành các quy phạm pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của Luật Đất đai năm 2013.
- Hội nhập quốc tế gắn liền với quá trình gia nhập các tổ chức quốc tế,
tức là chấp nhận các luật lệ và chuẩn mực quốc tế chung. Do đó, hệ thống
pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất phải phù hợp với các Điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc tham gia.
- Hội nhập quốc tế còn diễn ra trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo pháp
luật. Thông qua hoạt động này, đội ngũ cán bộ, công chức của Việt Nam được
tiếp thu, học hỏi những kỹ thuật lập pháp hiện đại, quan điểm, tư tưởng tiên
tiến về pháp luật nói chung và pháp luật đất đai nói riêng.
Có thể nói, hội nhập quốc tế đặt ra cho pháp luật về bồi thường khi nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp những mục tiêu mới, những định hướng tiến bộ
và những giới hạn để hạn chế sự lạm quyền của một bộ phận đội ngũ cán bộ,
công chức có thẩm quyền trong khi thực thi nhiệm vụ bồi thường khi thu hồi
đất nông nghiệp.
Thứ năm, quỹ đất phục vụ hoạt động bồi thường
Đất có giới hạn về diện tích, song nhu cầu cho tất cả các ngành, các
lĩnh vực và nhu cầu khác nhau của mỗi chủ thể sử dụng đất đều tăng. Vì vậy,
cứ mỗi chủ thể sử dụng đất mới được phát sinh thì chắc chắn ít nhất một hoặc
một số chủ thể sử dụng đất đang sử dụng sẽ bị chấm dứt (thu hồi). Vì vậy,

26
việc đưa ra phương thức bồi thường đất bằng đất là phương thức khó khả thi
trên thực tế, ngoại trừ thu hồi đất ở mà dẫn đến người có đất bị thu hồi
không còn chỗ ở nào khác thì bắt buộc trách nhiệm của nhà nước phải tạo
dựng chỗ ở mới cho người có đất bị thu hồi để họ không rơi vào cảnh “màn
trời, chiếu đất”. Còn lại, thu hồi các loại đất khác, đặc biệt là thu hồi đất nông
nghiệp thì phương thức bồi thường “đất bằng đất” dường như thiếu tính khả
thi trên thực tế bởi đất nông nghiệp được giao theo hiện trạng thực tế nên ở
địa phương có bao nhiêu quỹ đất nông nghiệp đều đã được giao ổn định cho
các hộ gia đình, cá nhân; nếu còn thì được chuyển sang quỹ đất dự phòng 5%
để xây dựng các công trình phúc lợi chung. Vì vậy, khi thu hồi đất nông
nghiệp, rất khó để Nhà nước có thể bố trí, bù đắp bằng quỹ đất nông nghiệp
khác cho người bị thu hồi đất mà thay thế vào đó là bồi thường bằng tiền và
thực hiện chính sách hỗ trợ thêm để họ ổn định cuộc sống và việc làm khác.
Vì vậy, khi giá đất nông nghiệp được xác định để bồi thường thấp, không đảm
bảo sinh kế lâu dài cho người dân mất tư liệu sản xuất thì họ bất bình và khiếu
nại về cách thức bồi thường, hỗ trợ cũng là điều dễ hiểu. Vì vậy, có thể nói,
quỹ đất phục vụ bồi thường sẽ tác động, ảnh hưởng tới bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất là rất lớn.

27
Kết luận Chương 1

1. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, nên
Nhà nước đại diện cho nhân dân quyết định việc thu hồi đất và thực hiện bồi
thường, hỗ trợ khi có các dự án nhằm mục đích an ninh quốc phòng, phát
triển kinh tế xã hội, mục đích công cộng,... Vì vậy, trong chương 1 luận văn
đã làm rõ các khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về bồi thường, hỗ trợ, tính tất yếu
khách quan và ảnh hưởng của thu hồi đất nông nghiệp đến đời sống của người
dân bị thu hồi đất; đồng thời nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật như
cơ cấu điều chỉnh và các yếu tố tác động chi phối tới pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
2. Xây dựng cơ sở pháp luật về đất đai nhằm phục vụ tốt hơn cho công
tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ là việc làm rất cần thiết và quan trọng. Vì
khi thu hồi đất nông nghiệp sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các bên liên quan,
đặc biệt là người sử dụng có đất nông nghiệp bị thu hồi. Do đó, Quốc hội đã
ban hành và liên tục sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai nhằm hoàn thiện pháp luật
để phù hợp với thực tiễn, với mục đích giải quyết hài hòa các mâu thuẫn, tạo
sự đồng thuận ba bên (Nhà nước, chủ đầu tư và người dân có đất nông nghiệp
bị thu hồi).
3. Các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng là quá trình hoạt động có mục
đích, giúp cho việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ bảo đảm khách quan, dân
chủ, công khai và kịp thời.

28
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp
Những quy định về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nói
chung được quy định tại Mục 2, Mục 3 Chương 6 Luật đất đai năm 2013 từ
Điều 74 đến Điều 94. Những quy định này đã được cụ thể hóa trong các văn
bản dưới luật cụ thể là: Nghị định của Chính phủ số 47/2014/NĐ - CP ngày
15/5/2014 về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và Thông tư của Bộ tài nguyên
môi trường số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/06/2014 quy định chi tiết về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Những văn bản này là cơ
sở pháp lý trong việc bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nói chung và
thu hồi đất nông nghiệp nói riêng.
2.1.1. Nguyên tắc và điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp
Thứ nhất, theo khoản 1 Điều 74 Luật đất đai 2013: “người sử dụng đất
khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường theo quy định
tại Điều 75 Luật đất đai 2013 thì được bồi thường”. Với các trường hợp
không được bồi thường về đất thì luật cũng xác định vấn đề bồi thường về chi
phí đầu tư vào đất còn lại. Tuy nhiên, không phải tất cả các chủ thể sử dụng
đất bị thu hồi vì mục đích quốc phòng an ninh; phát triển kinh tế – xã hội, vì
lợi ích quốc gia, công cộng đều được bồi thường mà họ còn phải đáp ứng một
vài điều kiện mà pháp luật quy định để được bồi thường.
Sự bù đắp những thiệt hại trực tiếp mà người sử dụng đất phải gánh

29
chịu do việc thu hồi đất gây ra được thể hiện bằng việc Nhà nước bồi thường,
hỗ trợ. Nếu đất nông nghiệp sạch không có để bồi thường cho người dân tiếp
tục sản xuất, thì Nhà nước còn có những chính sách hỗ trợ giúp họ phần nào
ổn định cuộc sống, bố trí việc làm mới và hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề.
Đây không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn là việc làm thể hiện trách nhiệm xã
hội, chính trị của Nhà nước.
Thứ hai, bồi thường bảo đảm đầy đủ các thiệt hại và phải theo giá đất
cụ thể do UBND tỉnh quyết định. “Việc bồi thường được thực hiện bằng việc
giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để
bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu
hồi do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi
đất”[16, Khoản 2 Điều 74]. Điều này là cơ sở để bảo đảm lợi ích cho người
có đất bị thu hồi, để họ thấy việc bồi thường là thỏa đáng và tự nguyện trả lại
đất được giao. Nguyên tắc này tạo sự linh hoạt khi cho phép cơ quan thẩm
quyền cũng như người bị thu hồi đất nông nghiệp lựa chọn được phương án
bồi thường phù hợp và nhằm bảo đảm sự công bằng giữa tất cả người sử dụng
đất có đất bị thu hồi.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai việc thực thi nguyên tắc này gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc như: việc bồi thường bằng đất nông nghiệp trong thực
tế chỉ được triển khai khi quỹ đất nông nghiệp của địa phương còn; giá đất
tính tại thời điểm thu hồi nhưng người bị thu hồi đất không nhận được tiền bồi
thường ngay ở thời điểm đó mà phải sau một thời gian nhất định, có khi từ 2
đến 3 năm kể từ ngày có quyết định thu hồi đất… Như vậy, đây là vấn đề cần
được quy định cụ thể hướng dẫn thi hành để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả khi
thực thi pháp luật.
Thứ ba, việc bồi thường phải bảo đảm dân chủ, công khai, kịp thời,
minh bạch và đúng theo quy định pháp luật. Trên thực tế đây là những yếu tố

30
hết sức cần thiết giúp cho việc thực hiện công tác bồi khi Nhà nước thu hồi
đất đạt hiệu quả cao, đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, người bị thu hồi
đất và chủ đầu tư. Nguyên tắc này được khẳng định ở cả hai Điều luật: “Việc
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan,
công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật”[16, Khoản 3
Điều 75] và “Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công
khai và đúng quy định của pháp luật”[16, Điểm b Khoản 1 Điều 83]. Trong
các văn bản pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất thì
nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ, kịp thời và đúng quy định của
pháp luật đã được thể hiện xuyên suốt. Qua đó, những vấn đề liên quan đến
bồi thường, hỗ trợ được công bố rộng rãi trong nhân dân.
2.1.2. Nội dung về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Trong công tác bồi thường đối với đất nông nghiệp bị thu hồi, có hai
nhóm tài sản chính yếu là đất nông nghiệp và tài sản gắn liền với đất bao
gồm: cây trồng, vật nuôi trên đất khi nhà nước thu hồi đất. Như vậy, căn cứ
vào thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, những quy định bồi thường về đất; chi
phí đầu tư vào đất còn lại; thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đã được Luật Đất đai năm 2013 tách biệt
thành những điều luật cụ thể:
2.1.2.1. Bồi thường về đất
Trên toàn bộ giá trị bồi thường phần giá trị này chiếm tỷ lệ tương đối
lớn. Vì thế, vấn đề này là phức tạp nhất, thường gặp phải nhiều tranh chấp,
khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất. Pháp luật quy định việc bồi thường về đất
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp như sau:
Quy định hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà
nước thu hồi đất thì được bồi thường về đất:
(1) Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm diện tích trong

31
hạn mức theo quy định tại Điều 129, Điều 130 của Luật Đất đai năm 2013 và
diện tích đất do được nhận thừa kế;
(2) Không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu
tư vào đất còn lại đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức quy định tại
Điều 129 của Luật Đất đai 36 năm 2013;
(3) Đối với diện tích đất nông nghiệp do nhận chuyển quyền sử dụng
đất vượt hạn mức trước ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành thì
việc bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Nhà nước không bồi thường về đất trong các trường hợp:
(1) Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường hợp
đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được giao đất
nông nghiệp trong hạn mức theo quy định của pháp luật;
(2) Đất được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm; đất thuê
trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất,
trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thuê do thực hiện chính sách
đối với người có công với cách mạng;
(3) Nhà nước không bồi thường về đất khi đất nông nghiệp đó nằm
trong quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn;
(4) Đất nhận khoán để sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối;
(5) Đất 37 được Nhà nước giao để quản lý;
(6) Trường hợp không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định
của Luật Đất đai năm 2013, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của
Luật Đất đai năm 2013.
Phương thức thực hiện việc bồi thường về đất nông nghiệp bi ṭ hu hồi:
bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; nếu không thì sẽ tính theo giá

32
đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm
quyết định thu hồi đất để bồi thường bằng tiền.
* Bồi thường đất bằng đất: Nguyên tắc ưu tiên “Việc bồi thường được
thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi,
nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ
thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm
quyết định thu hồi đất trên cơ sở bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng,
công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật”[16, Khoản 2 Điều 74]
Trên thực tế đây chỉ là phương thức bồi thường mang tính chủ trương
và hình thức. Có thể nhận thấy rằng chiếm tỷ lê ̣lớn nhất trong các loại đất bị
thu hồi của người dân là đất nông nghiệp. Tuy nhiên, quỹ đất nông nghiệp
trống tại các địa phương rất hạn chế. Do vậy, phương thức này chỉ được áp
dụng đối với những tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng
đất hoặc thu tiền sử dụng đất bằng ngân sách nhà nước mà ít khi được áp
dụng đối với việc thu hồi đất nông nghiệp của cá nhân, hộ gia đình. Trong khi
đó đa số các trường hợp là “bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại
thời điểm có quyết định thu hồi”. Điều đó, đặt ra yêu cầu là nếu xác định ưu
tiên bồi thường bằng việc giao đất mới là phương thức áp dụng thống nhất
cho tất cả các trường hợp được bồi thường thì cần thiết lập quỹ đất sạch để cá
nhân, tổ chức, hộ gia đình có điều kiện thụ hưởng hoặc có sự lựa chọn giữa
việc nhận bồi thường bằng đất hay nhận bồi thường bằng tiền. Ngược lại, nếu
xác định phương thức này chỉ được áp dụng giới hạn đối với chủ thể có đất bị
thu hồi là tổ chức và không có khả năng áp dụng đối với cá nhân, hộ gia đình
thì nên phân loại đối tượng trong bồi thường để đảm bảo tính khả thi trong
việc quy định và thực hiện bồi thường đối với đất đai nói chung và đất nông
nghiệp nói riêng.
* Bồi thường đất bằng tiền: Đây được xem là giải pháp thay thế trong

33
trường hợp không còn quỹ đất nông nghiệp trống để bồi thường. Khi bồi
thường bằng tiền, giá bồi thường đối với đất trong thu hồi đất nhằm thực hiện
quy hoạch là giá đất do UBND cấp tỉnh xây dựng và trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp thông qua bảng giá đất trước khi ban hành. Bảng giá đất công khai
vào ngày 01 tháng 01 của năm đầu kì, được xây dựng định kì 5 năm một lần.
Trong thời gian thực hiện bảng giá đất, khi Chính phủ điều chỉnh khung giá
đất hoặc giá đất phổ biến trên thị trường có biến động thì Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh điều chỉnh bảng giá đất cho phù hợp [16, Khoản 1 Điều 114]. Giá
này thường thấp hơn so với giá thực tế, được gọi là “giá nhà nước”. Sự chênh
lệch của hai loại giá này được khắc phục bằng các quy định của Chính phủ, cụ
thể tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định về điều chỉnh
bảng giá đất như sau: “a, Khi chính phủ điều chỉnh khung giá đất mà mức giá
đất điều chỉnh tăng từ 20% trở lên so với giá đất tối đa hoặc giảm từ 20% trở
lên so với giá đất tối thiểu trong bảng giá đất của loại đất tương tự. b, Khi giá
đất phổ biến trên thị trường tăng từ 20% trở lên so với giá đất tối đa và giảm
từ 20% trở xuống so với giá đất tối thiểu trong bảng giá đất trong khoảng
thời gian 180 ngày”. Điều này cho thấy, cũng đã có những quy định kịp thời
để đảm bảo giá trị bồi thường sát với giá trị thị trường thực tế trong điều kiện
bình thường. Tuy nhiên, hướng dẫn này vẫn còn gặp rất nhiều trở ngại trên
thực tế vì nhiều lý do. Không có căn cứ để xác định giá đất trên thị trường, vì
trong các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng như các giao dịch
khác, người dân thường có xu hướng khai giá đất thấp hơn so với giá thực tế
để chỉ phải đóng thuế thấp. Ngoài ta, công tác bồi thường có thể diễn ra trong
một thời gian dài ở các địa phương, trong nhiều năm liền, vì thế đã có sự thay
đổi khá lớn về giá đất cũng như việc xác định giá đất trên thực tế, gây ra
nhiều bất cập dẫn đến việc bồi thường không thỏa đáng, đây cũng là nguyên
nhân chính gây ra những khiếu nại về đất đai.

34
2.1.2.2. Bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại
Chi phí đầu tư vào đất còn lại là khoản chi phí đã được đầu tư vào đất
phù hợp với mục đích sử dụng đất nhưng chưa thu hồi hết tại thời điểm cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất.
Điều kiện xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại được quy định tại
Khoản 3, Điều 3, Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ;
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là khi có hồ sơ, chứng từ chứng minh đã
đầu tư vào đất. Trường hợp chi phí đầu tư vào đất còn lại không có hồ sơ,
chứng từ chứng minh thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào tình hình thực
tế tại địa phương quy định việc xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại.
Chi phí đầu tư vào đất còn lại được bồi thường trong các trường hợp:
Thứ nhất, bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân.
Quy định khi Nhà nước thu hồi đất thì hộ gia đình, cá nhân đang sử
dụng đất nông nghiệp được bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại
như sau: Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm diện tích trong
hạn mức theo quy định tại Điều 129, Điều 130 của Luật này và diện tích đất do
được nhận thừa kế.
Theo Điều 77 Luật Đất đai năm 2013 thì người sử dụng đất nông
nghiệp là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp trước ngày 01
tháng 7 năm 2004 nhưng không có hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này thì được bồi
thường với thực tế diện tích đất đang sử dụng; mà diện tích được bồi thường
không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp.
Thứ hai, bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ
tài chính, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo

35
Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính đang sử
dụng đất nông nghiệp được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm khi
Nhà nước thu hồi đất thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi
thường chi phí đầu tư vào đất còn lại nếu chi phí này không có nguồn gốc từ
ngân sách nhà nước.[16, Khoản 2 Điều 78]
Thứ ba, các trường hợp không được bồi thường về đất nhưng được bồi
thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích
quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
bao gồm: (1) Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường
hợp đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân quy định
tại khoản 1 Điều 54 của Luật Đất đai năm 2013; (4) Đất nông nghiệp thuộc
quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn; (5) Đất nhận khoán để sản xuất
nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối.[16, Điều 76]
Ngoài ra, đối với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp thì được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại trong các trường
hợp: Sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức quy định; người đang sử dụng
đất do nhận giao khoán (không bao gồm đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ,
đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên); người sử dụng đất nông nghiệp thuộc quỹ
đất công ích của xã, phường, thị trấn. Đây cũng chính là những trường hợp
tuy không đủ điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp nhưng có sự sử dụng, đầu tư vào đất trong một thời gian dài đồng thời
cũng không có sự vi phạm những quy định của pháp luật về đất đai. Nếu như
bồi thường về đất về căn bản là sự giao dịch bù đắp về giá trị sử dụng của đất
bị thu hồi thì bồi thường về chi phí đầu tư vào đất còn lại là sự bù đắp cho quá
trình đầu tư, cải tạo và thay đổi đất. Vì vậy, điều kiện bồi thường về đất đòi
hỏi quy định chặt chẽ về giấy tờ sở hữu, việc thực hiện nghĩa vụ tài chính đối
với Nhà nước, hạn mức sử dụng đất thì cơ sở để được bồi thường chủ yếu xét

36
trên mức độ đầu tư vào đất. Người sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức,
được miễn tiền sử dụng đất, khi bị thu hồi đất Nhà nước không bồi thường về
đất cho họ là hoàn toàn hợp lý nhằm đảm bảo công bằng giữa những người sử
dụng đất nhưng không thể phủ nhận công sức, chi phí họ đã bỏ ra. Với đất
nông nghiệp, để có được diện tích đất nông nghiệp màu mỡ, dinh dưỡng phù
hợp với sản xuất nông nghiệp không phải là điều đơn giản, những quy định về
điều kiện được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại là sự ghi nhận của
Nhà nước, bù đắp cho những thiệt hại của người dân.
Để được bồi thường về chi phí đầu tư vào đất còn lại, ngoài việc chi phí
đầu tư vào đất không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, thì người sử dụng
đất phải có đầy đủ hồ sơ, chứng từ chứng minh về việc đã đầu tư vào đất, bao
gồm các giấy tờ sau: Văn bản, hợp đồng thuê, khoán san lấp mặt bằng, tôn tạo
đất đối với đất được Nhà nước giao hoặc cho thuê, cải tạo đất, chống xói mòn,
chống xâm thực, xây dựng, gia cố nền đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh;
Văn bản, thanh lý hợp đồng; hóa đơn, chứng từ thanh toán đối với từng khoản
chi phí đã đầu tư vào đất quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 76; Văn bản, hợp
đồng khác có liên quan đến việc đầu tư vào đất được xác lập tại thời điểm đầu tư.
2.1.2.3. Bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp
Tại Khoản 1 Điều 88 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Khi Nhà nước
thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài
sản thì được bồi thường”.Đây được xem là một điểm mới của Luật Đất đai
năm 2013 khi đã bắt đầu xác định và xem xét bồi thường về đất không chỉ với
tư cách là tài sản hợp pháp gắn liền với đất mà còn là tài nguyên và tư liệu sản
xuất. Đất nông nghiệp không chỉ có ý nghĩa là một loại tài sản mà nó còn là
tài nguyên thiên nhiên, là tư liệu sản xuất của người nông dân, khi không còn
đất để canh tác sản xuất, những thiệt hại xảy ra là không tránh khỏi. Ngoài

37
những bồi thường về đất, về chi phí đầu tư vào đất còn lại, khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp, thì người có đất bị thu hồi còn được bồi thường thiệt hại
về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh cụ thể như sau:
* Bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi
Thiệt hại đối với cây trồng khi Nhà nước thu hồi đất thì việc bồi thường
thực hiện theo quy định tại khoản 1, Điều 90 Luật Đất đai 2013 như sau:
- Mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch đối
với cây hàng năm và được tính theo năng suất của vụ cao nhất trong 03 năm
trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá trung bình tại thời
điểm thu hồi đất;
- Đối với cây lâu năm, mức bồi thường được tính bằng giá trị hiện có
của vườn cây theo giá ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất mà không bao
gồm giá trị quyền sử dụng đất;
- Bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại thực tế do phải di chuyển,
phải trồng lại đối với cây trồng chưa thu hoạch nhưng có thể di chuyển đến
địa điểm khác;
- Bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của vườn cây đối với cây rừng
trồng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, cây rừng tự nhiên giao cho tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân trồng, quản lý, chăm sóc, bảo vệ; tiền bồi thường
được phân chia cho người quản lý, chăm sóc, bảo vệ theo quy định của pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng.
Còn đối với cây trồng trên đất, thì việc bồi thường được chia theo hai
loại là cây hàng năm và cây lâu năm. Mức bồi thường của mỗi loại cây là
khác nhau. Do giá trị khác nhau: mức bồi thường đối với cây lâu năm được
tính bằng giá trị hiện có của vườn cây (không bao hàm giá trị quyền sử dụng
đất) theo giá ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất và mức bồi thường đối với
cây hàng năm được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch.

38
Khi thu hồi đất, nếu có thiệt hại xảy ra, Nhà nước sẽ không đền bù cho
tất cả các loại vật nuôi như trâu, bò, lợn, gà,... mà chỉ áp dụng đối với vật nuôi
là thủy sản nhưng tại thời điểm thu hồi đất đã đến thời kỳ thu hoạch thì không
phải bồi thường. Khoản 2, Điều 90 Luật Đất đai năm 2013 quy định: Đối với
vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất chưa đến kỳ thu hoạch thì
được bồi thường thiệt hại thực tế do phải thu hoạch sớm; nếu di chuyển được
thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại do di chuyển gây ra.
Từ những quy định trên ta thấy, chỉ trong trường hợp, thu hồi đất mà
xảy ra thiệt hại trực tiếp về tài sản cây trồng, vật nuôi hoặc làm phát sinh các
chi phí khác như phí vận chuyển, hao hụt, thiệt hại do phải thu hoạch sớm thì
mới được bồi thường. Quy định này chủ yếu mang tính tương đối, bởi lẽ rất
khó xác định được thế nào là phải thu hoạch sớm, sớm là bao lâu và người có
tài sản đó, vật nuôi là thủy sản phải di chuyển đi đâu, căn cứ định giá chính
xác thiệt hại để bồi thường. Điều này đòi hỏi sự đánh giá chính xác của chính
quyền các địa phương, để bảo đảm bù đắp phần nào những thiệt hại trong
chăn nuôi, trồng trọt cho người dân.
* Bồi thường về tài sản khác trên đất nông nghiệp
Khi Nhà nước tiến hành thu hồi các loại đất mà gây ra thiệt hại do
nguyên nhân khách quan hay chủ quan thì cũng phải có trách nhiệm bồi
thường cho người có quyền sử dụng đất hợp pháp, ngoài bồi thường về đất thì
còn phải bồi thường các tài sản khác trên đất nếu có như: nhà kính, chuồng
trại chăn nuôi,...
Nhà nước khi thu hồi đất sẽ không bồi thường các tài sản gắn liền với
đất trong các trường hợp sau:[16, Điều 92]
Một là, vi phạm pháp luật về đất đai bị thu hồi đất.
- Sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê,
công nhận quyền sử dụng đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi

39
sử dụng đất 51 không đúng mục đích mà tiếp tục vi phạm (điểm a, khoản 1
Điều 64 Luật Đất đai năm 2013);
- Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất (điểm b, khoản 1 Điều 64 Luật
Đất đai năm 2013);
- Đất không được chuyển nhượng, tặng cho theo quy định của Luật này
mà nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho (điểm đ, khoản 1 Điều 64 Luật Đất
đai năm 2013); Đất được Nhà nước giao để quản lý mà để bị lấn, chiếm (điểm
đ, khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai năm 2013);
- Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật
này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm (điểm e,
khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai năm 2013);
- Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế (điểm b, khoản
1 Điều 65 Luật Đất đai năm 2013);
- Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn nhưng không được gia
hạn (điểm d, khoản 1 Điều 65 Luật Đất đai năm 2013).
Hai là, tài sản gắn liền với đất được tạo ra trước khi có quyết định thu
hồi đất nhưng tại thời điểm xây dựng công trình đó trái với mục đích sử dụng
đất đã được xác định trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Việc bồi thường chỉ xảy ra khi người sử dụng đất có quyền sử dụng đất
hợp pháp, có quyền lợi bị ảnh hưởng trực tiếp, rõ ràng nếu không đáp ứng đủ
điều kiện sẽ không được bồi thường. Các quy định nêu trên là sự chặt chẽ,
minh bạch trong quy định của pháp luật, tránh làm tổn thất ngân sách nhà
nước, vừa là bài học cho người dân trong việc chấp hành các quy định của
pháp luật về đất đai.
2.1.3. Nội dung quy định về xác định giá đất tính bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp
2.1.3.1. Nội dung quy định về nguyên tắc, phương pháp định giá đất

40
Theo Điều 113 và 114 Luật Đất đai năm 2013, những “loại” giá đất làm
cơ sở trực tiếp và gián tiếp để xác định giá đất tính bồi thường khi Nhà nước
THĐ là: khung giá đất, bảng giá đất và giá đất cụ thể. Giá đất rất quan trọng
vì nó là căn cứ để giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước,
người có đất bị thu hồi và chủ đầu tư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Chủ yếu các tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện diễn ra trên thực tế về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất đều có nguyên nhân từ xác định giá đất để
tính bồi thường chưa thỏa đáng; sự không đồng ý với phương án bồi thường
của người bị thu hồi đất.
Giá đất của Nhà nước phải “phù hợp với giá đất phổ biến trên thị
trường”[16, Khoản 3 Điều 112]. Theo đó, việc định giá đất phải đảm bảo
được các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc định giá đất phải theo mục đích SDĐ hợp pháp
tại thời điểm định giá
Giá đất tính bồi thường phải được xác định theo “mục đích SDĐ hợp
pháp” của thửa đất, có thể không phải “mục đích SDĐ trên thực tế”. Mục
đích sử dụng đất được ghi nhận trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do
cơ quan có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất. Ví dụ, mục đích SDĐ trên
giấy là đất trồng cây lâu năm thì chỉ được bồi thường theo giá đất trồng cây
lâu năm mà thôi.
Thứ hai, theo thời hạn SDĐ
“Thời hạn giao đất, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp đối với
hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp theo quy định tại khoản
1, khoản 2, điểm b khoản 3, khoản 4 và khoản 5 Điều 129 của Luật này là 50
năm. Khi hết thời hạn, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp
nếu có nhu cầu thì được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại khoản
này.”[16, Khoản 1 Điều 126]

41
Thứ ba, phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có
cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá QSDĐ đối với
những nơi có đấu giá QSDĐ hoặc thu nhập từ việc SDĐ
Thứ tư, cùng một thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích
sử dụng, khả năng sinh lợi, thu nhập từ việc SDĐ tương tự như nhau thì có
mức giá như nhau.
2.1.3.2. Nội dung quy định về khung giá đất
Chính phủ ban hành khung giá đất định kỳ 05 năm một lần đối với từng
loại đất, theo từng vùng. Đây là điểm mới đã được của Luật đất đai năm 2013
so với Luật đất đai năm 2003.
“Chính phủ ban hành khung giá đất định kỳ 05 năm một lần đối với
từng loại đất, theo từng vùng. Trong thời gian thực hiện khung giá đất mà giá
đất phổ biến trên thị trường tăng từ 20% trở lên so với giá tối đa hoặc giảm
từ 20% trở lên so với giá tối thiểu trong khung giá đất thì Chính phủ điều
chỉnh khung giá đất cho phù hợp.”[16, Điều 113]
2.1.3.3. Nội dung quy định về bảng giá đất và giá đất cụ thể
Để giải quyết những bất cập trong việc xác định giá đất làm căn cứ để
tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Luật đất đai năm 2013 đã quy định
rõ hơn về bảng giá đất và giá đất cụ thể để việc áp dụng được linh hoạt hơn
trong các trường hợp khác nhau.
Thứ nhất, căn cứ nguyên tắc, phương pháp định giá đất và khung giá
đất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp
thông qua bảng giá đất trước khi ban hành. Bảng giá đất được xây dựng định
kỳ 05 năm một lần và công bố công khai vào ngày 01 tháng 01 của năm đầu
kỳ. Trong thời gian thực hiện bảng giá đất, khi Chính phủ điều chỉnh khung
giá đất hoặc giá đất phổ biến trên thị trường có biến động thì Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh điều chỉnh bảng giá đất cho phù hợp.

42
Thứ hai, bảng giá đất được sử dụng để làm căn cứ trong các trường hợp
sau đây:
“a) Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất ở
của hộ gia đình, cá nhân đối với phần diện tích trong hạn mức; cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không
phải là đất ở sang đất ở đối với phần diện tích trong hạn mức giao đất ở cho
hộ gia đình, cá nhân; b) Tính thuế sử dụng đất; c) Tính phí và lệ phí trong
quản lý, sử dụng đất đai; d) Tính tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai; đ) Tính tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong
quản lý và sử dụng đất đai; e) Tính giá trị quyền sử dụng đất để trả cho người
tự nguyện trả lại đất cho Nhà nước đối với trường hợp đất trả lại là đất Nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất có thu
tiền sử dụng đất, đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê.”
[16, Khoản 2 Điều 114]
Thứ ba, giá đất cụ thể được sử dụng để làm căn cứ trong các trường
hợp sau đây:
- Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất của
hộ gia đình, cá nhân đối với phần diện tích đất ở vượt hạn mức; cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không
phải là đất ở sang đất ở đối với phần diện tích vượt hạn mức giao đất ở cho hộ
gia đình, cá nhân. Tính tiền thuê đất đối với đất nông nghiệp vượt hạn mức
giao đất, vượt hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ
gia đình, cá nhân;
- Tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
2.1.4. Nội dung pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Bên cạnh việc bồi thường đối với đất và tài sản thì nhằm giải quyết
những khó khăn của người dân bị thu hồi đất nông nghiệp gặp phải về sinh

43
hoạt, sản xuất, Nhà nước còn có những chính sách hỗ trợ thỏa đáng. Các
khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất: (1) Hỗ trợ ổn định đời sống và sản
xuất; (2) Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường
hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông
nghiệp[16, Điều 80]. Khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực
tiếp sản xuất nông nghiệp ngoài việc được bồi thường bằng tiền còn được hỗ
trợ chuyển đổi nghề, đào tạo nghề mới, tìm kiếm việc làm. Người được hỗ trợ
có nhu cầu được đào tạo nghề thì sẽ được tư vấn hỗ trợ tìm kiếm việc làm,
được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề; vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển
sản xuất, kinh doanh.
2.1.4.1. Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất.
Để được nhà nước hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất thì các đối tượng
này phải thỏa mãn các điều kiện:
- Đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất thuộc đối tượng quy định của Luật đã đủ
điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất quy định tại các Điều 100, 101 và 102 của Luật Đất đai, trừ
trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 19 Nghị định số 47/2014/NĐ-
CP ngày 15/5/2014.
- Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất vào mục đích nông
nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản do nhận giao khoán đất (không bao
gồm đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ) của các nông trường, lâm trường quy
định tại Điểm d Khoản 1 Điều 19 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 thì phải có hợp đồng giao khoán sử dụng đất.
Quy định pháp luật về hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất được quy
định tại điểm a khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013 và được cụ thể hóa

44
tại Điều 19, nghị định 47/2014/NĐ-CP và Điều 5 Thông tư số 37/2014/TT-
BTNMT; theo đó, tại Khoản 3 Điều 19 Nghị định 47/2014 có quy định sau:
“3. Việc hỗ trợ ổn định đời sống cho các đối tượng quy định tại các
Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều này thực hiện theo quy định sau:
a) Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì
được hỗ trợ trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong
thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến
các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế -
xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng.
b) Diện tích đất thu hồi quy định tại Điểm a Khoản này được xác định
theo từng quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền;
c) Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu quy định tại Điểm a và Điểm b
Khoản này được tính bằng tiền tương đương 30 kg gạo trong 01 tháng theo
thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương.”
So với trước đây, các quy định về hỗ trợ để ổn định đời sống và sản
xuất đã được tăng lên đáng kể và có sự phân biệt về diện tích đất nông nghiệp
bị thu hồi. Có thể thấy rằng, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi càng nhiều
thì đời sống sản xuất của hộ gia đình, cá nhân càng bị ảnh hưởng. Do đó, việc
chia ra 2 mức hộ trợ đối với hộ gia đình cá nhân bị thu hồi từ 30% - 70% và
trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang được sử dụng đã khắc phục sự bất
bình đẳng trong việc hưởng mức hỗ trợ. Bên cạnh đó, đối với người đang sử
dụng đất nông nghiệp từ 30% diện tích đất trở lên, thời gian hưởng hỗ trợ ổn
định đời sống theo quy định này cũng tăng lên gấp đôi. Ngoài ra, pháp luật
còn có quy định về mức chi trả cụ thể đối với hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi
đất. Mặc dù vậy, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về phương thức
khoản hỗ trợ này. Chính vì thế dẫn đến việc áp dụng tùy tiện và không đồng
nhất giữa các địa phương. Có địa phương áp dụng việc chi trả một lần, như

45
vậy sẽ không mang lại hiệu quả trong công tác hỗ trợ và làm mất đi mục đích
ban đầu của việc hỗ trợ là ổn định đời sống và sản xuất.
2.1.4.2. Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường
hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông
nghiệp
Trước tình trạng, nông dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp trở lên
thất nghiệp đang ngày càng phổ biến. Do đó, nhà nước ngày càng quan tâm
đến chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm mới cho hộ gia
đình, cá nhân bị thu hồi đất.
Về đối tượng được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc,
Khoản 1 Điều 20 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định:
“Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp quy định tại các Điểm
a, b, c và d Khoản 1 Điều 19 của Nghị định này (trừ trường hợp hộ gia đình,
cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông trường quốc doanh, lâm trường
quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ
cấp) khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà được bồi thường bằng tiền thì
ngoài việc được bồi thường bằng tiền đối với diện tích đất nông nghiệp thu
hồi còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm”. Như vậy
đối tượng được hỗ trợ, đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cũng
chính là những đối tượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp đã được hỗ trợ ổn
định đời sống và sản xuất nhưng do họ không được bồi thường về đất nông
nghiệp, theo cách diễn giải của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
là “được bồi thường bằng tiền với diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi”,
không thể tiếp tục sản xuất nông nghiệp nên cần thiết phải có những hỗ trợ để
họ có thể tiếp tục lao động, tìm kiếm thu nhập nuôi sống gia đình. Thể hiện rõ
mục đích ý nghĩa của chính sách hỗ trợ kết hợp với việc chuyển đổi cơ cấu
ngành nghề, pháp luật cũng giới hạn trường hợp: Cán bộ, công chức, viên

46
chức (đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được
hưởng trợ cấp) không thuộc đối tượng quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 19
của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP nhưng đang sử dụng đất nông nghiệp do
nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp theo quy định của pháp luật, khi
Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường về đất nhưng không được hỗ trợ ổn
định đời sống và sản xuất, không được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm
kiếm việc làm (Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT, khoản 1 Điều 16)[2]. Điều
này là hoàn toàn phù hợp vì những đối tượng trên không sống phụ thuộc vào
việc sản xuất nông nghiệp, ngoài sản xuất nông nghiệp họ còn có những
khoản thu nhập khác để phục vụ cuộc sống đồng thời đây cũng không phải là
các đối tượng trong quy hoạch chuyển đổi cơ cấu ngành nghề của Nhà nước.
Với cơ chế linh hoạt của Nhà nước trong việc thay đổi phương thức bồi
thường, hỗ trợ để bảo đảm cho người dân cũng như các địa phương lựa chọn
phương thức có lợi nhất phù hợp với điều kiện tại địa phương, việc hỗ trợ đào
tạo nghề, chuyển đổi việc làm được quy định như sau:
Thứ nhất, mở rộng hơn quy định về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và
tạo việc làm cho hộ gia đình cá nhân bị thu hồi đất.
Khoản 1 Điều 20 Nghị định 47/20014/NĐ- CP có quy định về mức độ
hỗ trợ đối với người bị thu hồi đất nông nghiệp như sau:
“a, Hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại
trong bảng giá đất của địa phương đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp
thu hồi; diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp
tại địa phương;
b, Mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ
điều kiện thực tế của địa phương.”
Như vậy, pháp luật hiện hành chỉ quy định một hình thức hỗ trợ duy
nhất là hỗ trợ bằng tiền. Mức tiền được quy định là “không quá 05 lần giá đất

47
nông nghiệp cùng loại”, ngoài ra, mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quy định. Quy định này, giúp cho các địa phương có thể thực hiện một
cách linh hoạt việc bồi thường tùy vào từng điều kiện. Tuy nhiên, quy định có
phạm vi quá rộng khi chỉ quy định mức hỗ trợ tối đa. Trong khi đó, Chính phủ
lại giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định mức hỗ trợ cụ thể nên thực tế
hướng dẫn ở các địa phương là rất khác nhau điều này dẫn đến một thực trạng
là mức hỗ trợ ở các dự án ở các tỉnh giáp ranh là rất khác nhau, dẫn đến việc
so bì, khiếu nại.
Thứ hai, chú trọng việc đào tạo nghề cho hộ gia đình, cá nhân bị thu
hồi đất.
Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tao việc làm cho nông dân không thể
không quan tâm đến việc đào tạo nghề mới cho họ. Khoản 2, 3 Điều 20 Nghị
định 47/2014/NĐ-CP có quy định: Chính phủ quyết định cơ chế, chính sách
giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người thu hồi đất nông nghiệp; trên
cơ sở đó Ủy ban nhân dân chỉ đạo việc lập và tổ chức thực hiện phương án
đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người trong độ tuổi lao
động tại địa phương.
Với quy định trước đây, mức hỗ trợ học nghế rất hạn chế. Không
những thế, không ít chính quyền địa phương và chủ dự án sử dụng đất thoái
thác trách nhiệm đào tạo nghề, chuyển đổi việc làm cho người nông dân bị
thu hồi đất. Trong quy định của pháp luật hiện hành, có quy định rõ thẩm
quyền trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện phương án đào tạo nghề,
chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất.
Ngoài ra, trong quy định còn xác định rõ: “Phương án đào tạo, chuyển đổi
nghề và tìm kiếm việc làm được lập và phê duyệt đồng thời với phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư.” Đây là quy định hoàn toàn hợp lý để đảm bảo
cho việc hỗ trợ được đồng bộ và có hiệu quả thực sự trên thực tế, khi người

48
dân bị thu hồi đất không chỉ ổn định về nơi ở mà còn ổn định cả về mặt sản
xuất lao động khi chuyển đến nơi ở mới. Tuy nhiên, việc thực thi quy định
trên trên thực tế còn không nhiều. Ngoài ra, một trong những điểm đáng chú ý
của quy định của pháp luật về vấn đề trên đó là: “Phương án đào tạo, chuyển
đổi nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm phải lấy ý kiến của người thu hồi đất.”
Điều này giúp cho phương án đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp có tính khả thi
cao hơn, tránh trường hợp có phương án nhưng người được hưởng lại không
biết hoặc không cảm thấy phù hợp. Việc lấy ý kiến của người bị thu hồi đất
nông nghiệp được thực hiện đồng thời với việc lập phương án hỗ trợ.
2.1.5. Nội dung pháp luật về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp
Hoạt động bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo một quy trình, trình
tự, thủ tục nhất định. Theo Luật Đất đai năm 2013 quy định trình tự, thủ tục
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp bao gồm các bước sau:
- Bước 1: Lập phương án bồi thường, hỗ trợ. Sau khi dự án đầu tư được
xét duyệt hoặc chấp thuận, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường (tại Điều 61,
Điều 62), GPMB bao gồm tổ chức dịch vụ công về đất đai, Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ có trách nhiệm lập và trình phương án về bồi thường, hỗ trợ
đối với từng tổ chức, cá nhân, hộ gia đình bị thu hồi đất; trên cơ sở tổng hợp
số liệu kiểm kê, xử lý các thông tin liên quan của từng trường hợp; áp giá tính
giá trị bồi thường về đất, tài sản trên đất.
- Bước 2: Thu thập ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ. Sau khi lập
phương án chi tiết, trách nhiệm của tổ chức có nhiệm vụ bồi thường phải phối
hợp với UBND cấp xã tổ chức lấy ý kiến của nhân dân, nhất là các đối tượng
bị thu hồi đất. Lấy ý kiến dưới hình thức: tổ chức họp trực tiếp, niêm yết công
khai tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có
đất thu hồi.

49
- Bước 3: Hoàn chỉnh, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ. Từ
việc lấy ý kiến của người dân có đất bị thu hồi, đại diện chính quyền, đoàn thể
ở cơ sở, tổ chức bồi thường tiếp thu, hoàn chỉnh phương án chi tiết bồi thường
trình cơ quan chuyên môn thẩm định và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Bước 4: Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ. Cơ quan có thẩm
quyền có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện
thẩm định phương án bồi thường trước khi Ủy ban nhân dân cùng cấp phê
duyệt (Theo Điều 13 Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014).
- Bước 5: Công khai phương án bồi thường, hỗ trợ. Niêm yết công khai
quyết định phê duyệt phương án bồi thường tại trụ sở UBND cấp xã và địa
điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và gửi quyết định bồi
thường đến từng người có đất nông nghiệp bị thu hồi.
- Bước 6: Tổ chức chi trả bồi thường, hỗ trợ. Theo phương án bồi
thường đã được phê duyệt tổ chức thực hiện việc bồi thường. UBND cấp xã,
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất nông nghiệp bị thu hồi
và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường trong trường hợp người có đất thu hồi
không bàn giao đất. Ban giả phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục
để người dân có đất bị thu hồi thực hiện giao đất.
- Bước 7: Bàn giao mặt bằng, cưỡng chế thu hồi đất. Người bị thu hồi
đất phải bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư sau khi nhận tiền bồi thường, hỗ
trợ. Trường hợp không bàn giao mặt bằng thì buộc phải dùng biện pháp
cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại Điều 71 Luật Đất đai 2013.
2.1.6. Quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp liên
quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Quá trình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất khó tránh khỏi những tranh chấp, bất đồng về lợi ích của các bên, đặc biệt
là việc người sử dụng có đất bị thu hồi không đồng thuận với việc thu hồi và

50
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do nhà nước có thẩm quyền xác
định. Dẫn đến việc người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan đến sử dụng đất, các cá nhân có đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Để đảm bảo trật tự công bằng xã hội, Nhà nước luôn coi trọng, làm tốt
công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai và đã ban hành
các quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo nói
chung hay các lĩnh vực nói riêng. Trong đó, Luật Đất đai năm 2013 đã quy
định tại Điều 204, Điều 205 về việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu
kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy
định của pháp luật về tố tụng hành chính[16, Khoản 2 Điều 204]. Việc giải
quyết tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai thực hiện theo
quy định của pháp Luật về tố cáo[16, Điều 205].
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu
2.2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Lai
Châu, tỉnh Lai Châu và tổng quan về tình hình thu hồi đất của thành phố
Lai Châu, tỉnh Lai Châu
* Vị trí địa lý
Lai Châu là tỉnh miền núi biên giới phía Tây Bắc, cách Thủ đô Hà Nội
khoảng 400 km về phía Đông Nam; phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung
Quốc) và tỉnh Lào Cai; phía Nam giáp tỉnh Điện Biên; phía Đông giáp tỉnh
Lào Cai và tỉnh Yên Bái; phía Tây giáp tỉnh Điện Biên và tỉnh Sơn La. Trên
địa bàn tỉnh hiện có 06 trục đường quốc lộ đi qua là: QL4D, QL70, QL12,
QL32, QL100, QL279 với tổng chiều dài là 318,5 km; 4 tuyến giao thông tỉnh
lộ là: 127, 128, 129, 132 với tổng chiều dài là 217 km và hệ thống các đường
giao thông nông thôn tạo điều kiện thuận lợi cho đi lại và thông thương, phát

51
triển kinh tế, thu hút vốn đầu tư.[8]
Thành phố Lai Châu là trung tâm văn hóa - chính trị của tỉnh Lai Châu,
được thành lập ngày 27 tháng 12 năm 2013 theo Nghị định số 131/NĐ-CP
của Chính phủ, nằm ở phía đông tỉnh Lai Châu và là thành phố có dân số ít
nhất Việt Nam.[9]
* Địa hình, địa mạo
Lai Châu có địa hình rất phức tạp và chia cắt mạnh, có cấu trúc chủ yếu
là núi đất, xen kẽ là các dãy núi đá vôi có dạng địa chất castơ (tạo nên các
hang động và sông suối ngầm), chiếm phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh.
Ngoài ra, Lai Châu có những bán bình nguyên rộng lớn, dạng địa hình thung
lũng, sông, suối, thềm bãi bồi.
* Về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên [7] [8] [9]
Tính đến thời điểm 31/12/2019, tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Lai
Châu là 9.068,78 km2; đất sử dụng cho sản xuất nông nghiệp là 84.209,3 ha,
chiếm 9,28% diện tích tự nhiên của tỉnh. Trong đó, diện tích tự nhiên của
thành phố Lai Châu là 70,77km2 (đất nông nghiệp là 4.254 ha). Đất ở Lai
Châu chủ yếu là nhóm đất đỏ vàng và vàng nhạt phát triển trên đất cát, đất sét
và đá vôi, có kết cấu chặt chẽ.
Tài nguyên rừng: Năm 2019, trên địa bàn toàn tỉnh Lai Châu có
706.621,5 ha tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp, gồm: Đất có rừng
453.499,8 ha (rừng tự nhiên 435.128,3 ha, rừng trồng 18.371,5 ha); đất chưa
có rừng 253.121,7 ha; tỷ lệ che phủ rừng đạt 50,16%.
Tài nguyên nước: Lai Châu với vị trí đầu nguồn của sông Đà cung cấp
nguồn nước tưới tiêu, sinh hoạt cho tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình và một
phần cho Đồng bằng Bắc Bộ. Đặc biệt là nơi sinh thủy cung cấp nước cho các
công trình thủy điện lớn là thủy điện Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Huội
Quảng, Bản Chát và nhiều công trình thuỷ điện vừa và nhỏ khác.

52
Đặc thù là tỉnh có diện tích lớn, khí hậu Lai Châu được chia làm 2 mùa
rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4
năm sau, không bị ảnh hưởng của gió Lào khô hanh như các tỉnh giáp Lào,
không có mưa phùn gió bấc như vùng đồng bằng Bắc bộ, thổ nhưỡng phong
phú, đa dạng, là điều kiện thuận lợi để phát triển các sản phẩm nông, lâm
nghiệp chất lượng cao.
* Về dân số
Dân số toàn tỉnh đến hết năm 2019 là 463.911 người (dân số thành phố
Lai Châu là 42.973 người); 17,8% dân số sống ở đô thị và 82,2% dân số sống
ở nông thôn; gồm 20 dân tộc anh em cùng sinh sống; dân tộc thiểu số chiếm
trên 87%. Dân số trong độ tuổi lao động có 283.522 người, chiếm 61,2%,
trong đó, số lao động qua đào tạo chiếm 48,5% so với tổng số người lao động
của tỉnh.[8]
* Về ngành nghề sản xuất chủ yếu
Với điều kiện tự nhiên đặc biệt thổ nhưỡng, khí hậu; Lai Châu chủ yếu
phát triển về nghề trồng lúa nước và trồng cây lâu năm (cây chè, cao su). Đối
với cây chè, toàn tỉnh Lai Châu hiện có gần 3.410 ha, tập trung chủ yếu ở các
huyện Tân Uyên, Tam Đường và thành phố Lai Châu.
Vấn đề thu hồi đất nông nghiệp để phát triển thành phố, mở rộng thành
phố là cần thiết nhằm chuyển dịch nhanh và mạnh kinh tế, xã hội của tỉnh nói
chung và thành phố duy nhất của tỉnh nói riêng. Điều đó cũng cho thấy, việc
thu hồi đất nông nghiệp diễn ra là tất yếu, đi đôi với đó là trọng trách của tỉnh
nói chung và chính quyền thành phố Lai châu nói riêng phải giải quyết tốt vấn
đề bồi thường, hỗ trợ, giải quyết tốt vấn đề an dân là vấn đề không hề đơn
giản.
Thực hiện quá trình CNH - HĐH, tỉnh Lai Châu đã và đang tích cực
trong xây dựng cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, cải tạo hệ thống giao

53
thông, thủy lợi, hạ tầng các khu đô thị và nông thôn, khai thác quỹ đất tạo
nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng đã tạo ra sức ép lớn về thu hồi đất đai cho
tỉnh miền núi. Phải xác định vị trí xây dựng, bố trí các công trình đặc biệt đối
với tỉnh miền núi địa hình bị chia cắt độ dốc lớn.
Dân tộc thiểu số toàn tỉnh chiếm trên 87%, đặc biệt đất nông nghiệp lại
vô cùng quan trọng đối với sinh kế của họ, những người chủ yếu làm nghề
nông nghiệp, trình độ dân trí thấp, chưa nắm bắt hiểu rõ được pháp luật. Bên
cạnh đó, người dân tộc thiểu số có phong tục tập quán mô tả chi tiết mối liên
hệ giữa cộng đồng với môi trường tự nhiên, cách sử dụng đất để duy trì cuộc
sống và nhu cầu tinh thần. Nhiều phong tục tập quán chưa được thừa nhận
trong luật pháp mặc dù nó có sức ảnh hưởng rất lớn trong các cộng đồng dân
tộc thiểu số hoặc một số còn có sự mâu thuẫn với pháp luật. Điều này cũng
ảnh hưởng không nhỏ tới vấn đề thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ sẽ phức tạp,
kéo dài thời gian hơn khi họ chưa nắm bắt hiểu rõ được pháp luật cũng như
mục đích chính đáng của việc thu hồi đất nông nghiệp.
2.2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu
Để tổ chức thực thi tốt vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất nói chung và bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp nói riêng, trên cơ sở các quy định của Luật Đất đai 2013 và các
Nghị định hướng dẫn thi hành của Chính phủ, UBND tỉnh Lai Châu đã ban
hành các văn bản nhằm hướng dẫn cụ thể, trực tiếp việc thực hiện vấn đề này
một cách phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh và thành phố. Theo đó, một số
văn bản cụ thể, trực tiếp liên quan tới bồi thường, hỗ trợ đối với việc thu hồi đất
nông nghiệp phải được kể đến là:
1. Bảng giá đất nông nghiệp được Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu ban
hành, Quyết định số: 43/2014/QĐ-UBND ngày 19 /12/2014 về việc ban hành

54
giá đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu, kèm theo Quyết định này Bảng giá đất
trên địa bàn tỉnh Lai Châu và được áp dụng trong thời gian 05 năm (2015-
2019), kể từ ngày 01/01/2015.
2. Quyết định số 33/2014/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Lai
Châu về việc ban hành quy định một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư; trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa
bàn tỉnh Lai Châu.
Quyết định số 30/2017/QĐ-UBND của UBND tỉnh Lai Châu ngày
14/8/2017 ban hành đơn giá bồi thường về nhà, công trình xây dựng trên đất,
cây trồng, vật nuôi và các tài sản khác gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Trên cơ sở các văn bản pháp luật trên, chính quyền thành phố đã triển
khai việc thu hồi đất, thực hiện bồi thường, tái định cư trong những năm qua
như sau:
2.2.2.1. Tình hình triển khai thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu
Thành phố Lai Châu là một thành phố có sự đô thị hóa nhanh, nhiều
công trình dự án đã triển khai thực hiện giai đoạn 2015 – 2019 và cùng với đó
là Ủy ban nhân dân thành phố được giao chịu trách nhiệm thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ về đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Cụ thể một số công
trình dự án:[22] [23] [24]
Dự án 1: Xây dựng trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn
tỉnh Lai Châu (năm 2015)
Tổng diện tích đất thu hồi để thực hiện dự án là 6,77 ha; tổng số hộ bị
thu hồi là 50 hộ và 01 tổ chức di chuyển tài sản. Trong đó, số hộ gia đình, cá
nhân có đất nông nghiệp bị thu hồi là 49 hộ; thu hồi đất ở và nhà của 01 hộ.
Dự án đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ với tổng kinh phí hơn 9,4 tỷ

55
đồng. Cơ quan thực hiện giải phóng mặt bằng đã phối hợp với chủ đầu tư và
UBND phường tổ chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho các hộ gia đình, cá
nhân; đã có 50/51 hộ gia, đình cá nhân, tổ chức nhận tiền bồi thường, hỗ trợ;
trong đó, có 48 hộ gia đình, cá nhân có đất nông nghiệp bị thu hồi đã nhận bồi
thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng để thực hiện dự án. Chỉ duy nhất 01 hộ
có đất nông nghiệp (trồng cây lâu năm: trồng chè) bị thu hồi đến nay không
nhận bồi thường, hỗ trợ và trong quá trình thu hồi thì hộ không bàn giao mặt
bằng để thực hiện dự án. Sau nhiều lần giải quyết, trả lời, tổ chức vận động
tuyên truyền nhưng hộ gia đình vẫn không chấp hành Quyết định thu hồi đất
của UBND thành phố Lai Châu và phải thực hiện thu hồi đất bằng biện pháp
cưỡng chế.
Dự án 2: Hệ thống thoát nước ra suối nậm Con Gin (năm 2017)
Nằm trên địa bàn phường Đông Phong và xã San Thàng, do Ban Quản
lý dự án làm chủ đầu tư. Tổng diện tích đất thu hồi để thực hiện dự án là
31.409,2 m2; trong đó, diện tích đất nông nghiệp thu hồi là 13.403,5 m2 gồm
đất trồng cây hàng năm và đất trồng cây lâu lăm. Ủy ban nhân dân thành phố
đã phê duyệt phương án và thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ cho các hộ gia
đình, cá nhân có đất bị thu hồi.
Dự án 3: Nâng cấp cải tạo hệ thống xử lý rác thải sinh hoạt trên địa
bàn thành phố Lai Châu (năm 2017)
Chủ đầu tư là Ban Quản lý xây dựng Tỉnh. Ủy ban nhân dân Thành phố
phê duyệt phương án bồi thường về đất, tài sản và hoa màu; hỗ trợ chuyển đồi
nghề, ổn định đời sống sản xuất với tổng kinh phí là hơn 3,2 tỷ đồng; đã tổ
chức chi trả hơn 1,7 tỷ đồng. Tổng diện tích đất phải thu hồi là 25.112 m2;
trong đó diện tích đất nông nghiệp thu hồi là 22.107 m2 và đất khác là 3.005 m2.
Dự án 4: Tuyến kênh số 2 hệ thống thoát nước thành phố (năm 2017)
Dự án có tổng diện tích đất phải thu hồi là 18.981 m2 của 20 hộ gia

56
đình, cá nhân và 01 tổ chức; trong đó thu hồi đất nông nghiệp với diện tích là
13.255,6 m2; đất khác là 5.725,4 m2. Dự án này đã hoàn thành việc bồi
thường, hỗ trợ đầy đủ cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức với tổng kinh phí
là hơn 2,2 tỷ đồng.
Dự án 5: Trường Trung học cơ sở Đông Phong (năm 2017)
Dự án được triển khai trên địa bàn phường Đông Phong với tổng diện
tích đất phải thu hồi là 13.026 m2. Diện tích thu hồi đất nông nghiệp là 7.749
m2; đất ở là 359,4 m2; đất khác là 4.917,2 m2. Ủy ban nhân dân Thành phố đã
phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ với tổng kinh phí là gần 3,5 tỷ đồng;
đã tổ chức chi trả gần 3 tỷ đồng.
Dự án 6: Khu Lâm viên thành phố Lai Châu (năm 2018)
Tổng diện tích đất phải thu hồi là 20.340,4 m2, toàn bộ là đất nông
nghiệp (đất trồng vây lâu lăm) của 14 hộ gia đình, cá nhân thuộc địa bàn
phường Tân Phong. Kinh phí bồi thường, hỗ trợ cho các hộ gia đình, cá nhân
có đất nông nghiệp bị thu hồi là trên 3,5 tỷ đồng; đã chi trả hơn 3,1 tỷ đồng.
* Quy trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
các dự án trên địa bàn thành phố Lai Châu
Được quy định tại điều 25 (Quyết định số 33/2014/QĐ-UBND của
UBND tỉnh Lai Châu): “Trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư.”
Bước 1: Họp dân, phát tờ kê khai và thu thập các giấy tờ về đất đai
Bước 2: Kiểm tra tờ khai, điều tra, kiểm đếm đất đai, tài sản gắn liền
với đất.
Bước 3: Xác nhận các nội dung kê khai, kiểm kê đất đai, tài sản trên đất
bị thu hồi
Bước 4: Xử lý một số trường hợp về đất, tài sản trên đất khi kê khai,
kiểm kê và xác nhận

57
Bước 5: Lập, niêm yết lấy ý kiến về dự thảo phương án bồi thường, hỗ
trợ (sau đây gọi là phương án bồi thường).
Bước 6: Hoàn chỉnh, thẩm định và phê duyệt phương án bồi thường
Bước 7: Công khai phương án bồi thường; tổ chức chi trả tiền bồi
thường và bàn giao mặt bằng
Chủ đầu tư dự án chỉ được thực hiện dự án sau khi đã được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền bàn giao đất sạch ngoài thực địa (có Biên bản bàn
giao). Trường hợp đặc biệt phải có ý kiến bằng văn bản của cơ quan có thẩm
quyền quyết định đầu tư dự án.
Về cơ bản công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng các dự án
đều được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục.
2.2.2.2. Những tác động tích cực trong việc bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất
nông nghiệp
Qua khái quát tự nhiên, kinh tế - xã hội và từ thực tiễn thực hiện một số
dự án nêu trên tại thành phố Lai Châu tỉnh Lai Châu cho thấy việc thực hiện
chính sách, pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đã
được tỉnh, thành phố quan tâm cụ thể như sau:
Thứ nhất, thành phố Lai Châu là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa
của tỉnh, hệ thống đường bộ được đầu tư xây dựng nâng cấp đồng bộ. Nơi đây
được chú trọng các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng xã hội, mà hầu hết
các dự án liên quan đến thu hồi đát nông nghiệp là chủ yếu. Vì vậy, chính
quyền các cấp của thành phố cũng như trong tỉnh đều quan tâm chú trọng đến
lãnh đạo công tác thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp nhằm nâng cao đời sống Nhân dân; mặt khác, giảm các tranh
chấp, khiếu kiện về đất đai đến mức thấp nhất.
Trong thời gian qua, UBND thành phố, UBND tỉnh cũng ban hành nghị
quyết, văn bản về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bồi thường khi Nhà

58
nước thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng: Quyết định số
33/2014/QĐ-UBND ngày 05/11/2014 của UBND Tỉnh Lai Châu về việc ban
hành Quy định một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; trình tự,
thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn Tỉnh Lai Châu;
Quyết định số 34/2014/QĐ-UBND ngày 05/11/2014 của UBND tỉnh Lai
Châu về việc ban hành Quy định về trình tự thực hiện thu hồi đất, giao đất,
cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu;…
Thứ hai, công tác thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp cơ bản đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, đúng
trình tự, thủ tục từ ban hành thông báo thu hồi đất; lập phương án bồi thường,
hỗ trợ; áp dụng giá đất làm căn cứ xác định bồi thường, hỗ trợ đúng theo quy
định đến việc công khai phương án hỗ trợ cho các hộ gia đình, cá nhân bị thu
hồi đất nông nghiệp.
Thứ ba, các chính sách hỗ trợ mà tỉnh ban hành đã thể hiện được sự
quan tâm hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất và các hỗ trợ khác cho những
người có đất nông nghiệp bị thu hồi. Nhìn chung, đa số người dân có đất nông
nghiệp bị thu hồi đều đồng ý bàn giao mặt bằng để thực hiện dự án và nhận
bồi thường, hỗ trợ theo phương án đã đưa ra.
2.2.2.3. Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động bồi thường thu hồi đất
nông nghiệp
Tuy nhiên, từ thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở một số dự án trên địa bàn thành
phố Lai Châu có thể thấy còn tồn tại vấn đề sau:
Thứ nhất, về quy trình thủ tục: Quá trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ
phải thực hiện qua nhiều giai đoạn, thời gian, thủ tục quy định làm ảnh hưởng
không nhỏ đến tiến độ thu hồi đất và việc GPMB cho các dự án bị trậm trễ.
Nhìn chung các dự án đều bị chậm tiến độ tùy theo quy mô của dự án; quy mô

59
nhỏ có thể chậm tiến độ từ 2 – 6 tháng hoặc lớn hơn thì từ 1 – 2 năm. Ví dụ
dự án “Hệ thống thoát nước ra suối nậm Con Gin (năm 2017)” triển khai
ngày 07/04/2017 và hoàn thành theo kế hoạch là ngày 12/01/2018; nhưng
trong quá trình thu hồi đất người dân không nhất trí phương án bồi thường, hỗ
trợ phải phê duyện phương án (lần 2) dẫn đến chậm tiến độ so với kế hoạch
21 tháng. Dự án “Trường Trung học cơ sở Đông Phong (năm 2017)” chậm
tiến độ 23 tháng.
Thứ hai, việc bồi thường, hỗ trợ luôn gặp nhiều vướng mắc nhất trong
quá trình thực hiện: Giá bồi thường còn thấp, chưa sát với giá thị trường tại
thời điểm bồi thường và hầu hết các dự án đều có người dân thắc mắc về giá
bồi thường. Tại thời điểm thu hồi đất thì việc bồi thường áp giá theo khung
giá chung 5 năm/ lần (theo Luật Đất đai năm 2013). Đối với một dự án thì
việc bồi thường, hỗ trợ không thể hoàn thành trong một năm mà có thể kéo
dài trong năm khác. Do đó, có thể tạo nên sự chênh lệch giữa các dự án với
nhau và giữa giá được áp dụng để bồi thường, hỗ trợ và giá chuyển nhượng
trên thị trường.
Các dự án trên địa bàn thành phố Lai Châu đều được áp dụng giá đất cụ
thể để tính tiền bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự
án là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật (Căn cứ Quyết định số
43/2014/QĐ-UBND ngày 19/12/2014 của UBND tỉnh Lai Châu về việc ban
hành giá đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu). Tuy nhiên, một số dự án kể trên như:
“Xây dựng trường THPT chuyên Lê Quý Đôn tỉnh Lai Châu”, “Khu lâm viên
thành phố Lai Châu”, “Trường trung học cơ sở Đông Phong” chủ yếu là thu
hồi đất trồng cây lâu năm (cây chè) với mức giá tương ứng VT1: 24.000
đồng/m2; nhưng người dân đều phản ánh không nhất trí với phương án bồi
thường, hỗ trợ; đơn giá bồi thường thấp. Vì vậy, gây bất bình trong người dân
có đất bị thu hồi, xảy đến một số trường hợp hộ gia đình không chịu bàn giao

60
mặt bằng và bắt buộc phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi đất.
Thứ ba, về nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật. Nhiều người dân
bị thu hồi đất nông nghiệp đã được chính quyền địa phường áp dụng đầy đủ
các chính sách, đã được vận động thuyết phục nhưng vẫn cố tình chống đối,
không chấp hành phương án đền bù thiệt hại, làm ảnh hưởng đến tiến độ
GPMB, thi công dự án cũng như thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ; dẫn
đến việc phải thực thi biện pháp cưỡng chế thu hồi đất.
Ví dụ: Dự án “Xây dựng trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý
Đôn tỉnh Lai Châu (năm 2015)”, trong quá trình thu hồi đất hộ gia đình Bà
Phạm Thị Nguyệt không chịu bàn giao mặt bằng cho Nhà nước để thực hiện
dự án do không nhất trí nhận tiền bồi thường, hỗ trợ mặc dù đã được UBND
phường Đông Phong kết hợp cùng UBMTTQ phường Đông Phong, Trung
tâm phát triển quỹ đất đến vận động, giải thích các chế độ chính sách, thuyết
phục hộ gia đình chấp hành Quyết định thu hồi đất, nhận tiền bồi thường, hỗ
trợ đã được phê duyệt theo quy định. Bà Nguyệt có một số đề nghị như tăng
giá bồi thường về đất, bù đất bờ lô,… và các đề nghị đều đã được UBND
thành phố chỉ đạo giải quyết và trả lời bằng văn bản. Qua nhiều lần giải quyết,
trả lời, tổ chức vận động tuyên truyền nhưng Bà Nguyệt vẫn không chấp
hành. UBND thành phố Lai Châu đã ban hành Quyết định cưỡng chế thu hồi
đất số 977/QĐ-UBND, tiếp tục vận động thuyết phục và tiến hành cưỡng chế
di dời toàn bộ cây cối, hoa màu về UBND phường để quản lý theo quy định.
Thứ tư, việc hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ đào tạo chuyển đồi nghề và
tìm kiếm việc làm cho người dân mới chỉ dừng lại ở việc quy đổi thành giá
tiền mà chưa thực sự quan tâm đến việc học nghề, chuyển đổi việc làm của
người bị thu hồi đất sau thu hồi.
Theo điều 17 (Quyết định số 33/2014/QĐ-UBND) về hỗ trợ đào tạo,
chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu hồi

61
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp trên
địa bàn thành phố Lai Châu như sau: đối với đất trồng cây lâu năm được hỗ
trợ bằng 3 lần giá đất cùng loại, cùng vị trí (VT1: 24.000 đồng/m2; VT2:
20.000 đồng/m2; VT3: 16.000 đồng/m2)
Qua thực tế một số dự án nêu trên, chủ yếu chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ
thành tiền chưa tổ chức thực hiện được phương án đào tạo, chuyển đổi nghề
và tìm kiếm việc làm cho người trong độ tuổi lao động tại địa phương. Ví dụ
dự án “Hệ thống thoát nước ra suối nậm Con Gin” kinh phí hỗ trợ chuyển đổi
nghề là 3,423,729 nghìn đồng; hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất là 195,120
nghìn đồng. Hay dự án “Khu lâm viên thành phố Lai Châu” tổng kinh phí hỗ
trợ chuyển đổi nghề và ổn định đời sống sản xuất là 2,176,508 nghìn đồng.
Những kinh phí hỗ trợ đó người dân có thực sự sử dụng cho việc học nghề,
chuyển đổi nghề hay chỉ dùng để sử dụng vào mục đích trước mắt như xây
nhà, mua sắm,...
Thứ năm, về công tác quản lý dữ liệu đất đai còn chưa chủ động, nhiều
trường hợp vẫn để người dân tự ý chuyển nhượng đất đai không theo quy
định, tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất để đòi bồi thường theo hiện trạng;
diện tích sử dụng đất của nhiều hộ thay đổi hiện trạng so với giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, các hồ sơ địa chính không lưu trữ được hết biến động đất
đai, nguồn gốc đất, diện tích đất sử dụng qua các thời kỳ. Điều này, gây khó
khăn trong quá trình xác định nguồn gốc đất, loại đất, diện tích đất sử dụng
khi bị thu hồi đất.
2.2.2.4. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu
i) Nguyên nhân chủ quan
Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu

62
xuất phát từ một số nguyên nhân chủ quan chủ yếu sau:
Một là, Lai châu là một tỉnh miền núi biên giới, chiếm số đông là đồng
bào dân tộc thiểu số (trực tiếp sử dụng đất nông nghiệp) với trình độ và sự
hiểu biết pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, đội ngũ
cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý đất đai còn bộc lộ sự yếu kém về
năng lực, trình độ chuyên môn và ý thức phục vụ Nhân dân chưa cao.
Hai là, cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành; giữa các phòng, ban,
tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp chưa thực sự hiệu quả, thiếu sự đồng bộ và chặt chẽ. Vẫn chưa có cơ
chế phối hợp giữa các cơ quan để giải quyết tốt công việc của mình.
Ba là, các cấp chính quyền địa phương chưa thực sự vào cuộc, thậm chí
còn né tránh, thiếu cương quyết trong thực thi nhiệm vụ về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; không giải quyết dứt điểm, kịp thời dẫn
đến các trường hợp khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp kéo dài.
ii) Nguyên nhân khách quan
Một là, những chính sách, quy định pháp luật về đất đai nói chung và
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói riêng còn
thiếu sự đồng bộ, thống nhất và thường xuyên sửa đổi, bổ sung. Nhiều cơ
quan ở trung ương và địa phương đều ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi
hành các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Do
vậy, những mâu thuẫn, chồng chéo trong nội dung gây khó khăn trong quá
trình thực thi pháp luật là điều khó có thể tránh khỏi.
Hai là, trên thực tế, công tác tuyên truyền vận động đối với người bị thu
hồi đất là hết sức khó khăn. Một mặt, do trình độ hiểu biết của người dân còn
chưa cao, việc tiếp cận với pháp luật còn hạn chế; mặt khác, bị các đối tượng
xấu xúi giục, lôi kéo, kích động dẫn đến việc khiếu nại tố cáo vượt cấp. Điển
hình như ở dự án “Xây dựng trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn

63
tỉnh Lai Châu (năm 2015)”, liên quan đến 51 hộ ở phường Đông Phong gây
khó khăn trong việc giải phóng mặt bằng, làm chậm tiến độ thi công. Trong
đó, phải tổ chức cưỡng chế 2 hộ không chịu bàn giao đất gồm bà Phạm Thị
Nguyệt không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ, không bàn giao mặt bằng để thực
hiện dự án; con gái bà Nguyệt là chị Phạm Thị Hương đã nhận tiền bồi
thường, hỗ trợ, đã nhận đất tái định cư xây nhà ở nhưng không bàn giao mặt
bằng. Đơn vị giải phóng mặt bằng đã mời gia đình bà Nguyệt 5 lần nhận tiền
bồi thường, hỗ trợ và các cơ quan có liên quan đã tổ chức vận động 3 lần,
nhưng bà Nguyệt vẫn không nhận tiền và có ý kiến đề nghị được hỗ trợ 1 suất
đất tái định cư, tăng giá bồi thường về đất, được hỗ trợ chuyển đổi nghề
nghiệp lên 5 lần. Tuy nhiên, tại thời điểm thu hồi đất “Dự án trường Trung
học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn” hộ gia đình bà Phạm Thị Nguyệt không
bị thu hồi đất ở và nhà ở, không phải di chuyển chỗ ở, do vậy không đủ điều
kiện được cấp đất tái định cư và đất của gia đình bà Nguyệt bị thu hồi là đất
trồng cây lâu năm vị trí 1 và được áp giá đất cụ thể để tính bồi thường là
24.000 đồng/m2; việc áp dụng hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm
việc làm bằng 3 lần giá đất cùng loại, cùng vị trí là đúng quy định hiện hành.
Qua nhiều lần giải quyết, trả lời, tổ chức vận động tuyên truyền nhưng
bà Nguyệt vẫn không chấp hành Quyết định thu hồi đất của Ủy ban Nhân dân
thành phố Lai Châu. Cuối tháng 4/2018, Ủy ban Nhân dân thành phố Lai
Châu đã ban hành Quyết định cưỡng chế thu hồi đất và Thành lập Ban cưỡng
chế thực hiện cưỡng chế thu hồi đất; đến tháng 9/2018, bàn giao diện tích đất
lại cho chủ đầu tư “Dự án xây dựng Trường Trung học phổ thông chuyên Lê
Quý Đôn” quản lý.

64
Kết luận Chương 2

1. Nội dung pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp gồm những vấn đề cụ thể như quy định nguyên tắc, điều kiện
thẩm quyền, giá đất xác định bồi thường, trình tự, thủ tục và giải quyết khiếu
nại, tố cáo, tranh chấp liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp. Những nội dung cơ bản trên được tác giả phân tích tại Tiểu
mục 2.1 Chương 2 Luận văn.
2. Thành phố Lai Châu là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh
Lai Châu; nhận được sự đầu tư đồng bộ của tỉnh về hệ thống cơ sở hạ tầng,
nhiều dự án xây mới cũng như cải tạo, nâng cấp đô thị đã được triển khai làm
cho thành phố từng bước thay đổi.
Có thể khẳng định thu hồi đất nông nghiệp là một vấn đề khá nóng,
nhiều khó khăn, phức tạp do không chỉ động chạm đến lợi ích của các bên
trong quan hệ thu hồi đất, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến kế sinh nhai, công
ăn việc làm, lợi tức trên đất của người có đất nông nghiệp bị thu hồi. Từ đó,
gây ra bức xúc, bất ổn chính trị - xã hội, thiệt hại về kinh tế khi người dân
không nhất trí với phương án bồi thường, hỗ trợ của Nhà nước đã đưa ra.
Được thành lập từ khi Luật đất đai năm 2013 được ban hành, UBND tỉnh và
UBND thành phố Lai Châu luôn chấp hành đúng chủ trương đường lối của
Đảng, nhà nước; thực hiện theo đúng các quy định của Luật cũng như các văn
bản hướng dẫn liên quan trong vấn đề bồi thường, hỗ trợ; góp phần vào việc
thúc đẩy sự phát triển của thành phố nói chung và toàn tỉnh nói riêng. Tuy
nhiên, việc thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn thành phố Lai
Châu vẫn còn gặp nhiều hạn chế, vướng mắc. Muốn giải quyết được những
hạn chế đó cần có sự đồng thuận, nhất trí của các bên có liên quan trong vấn
đề thu hồi đất nông nghiệp.

65
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ LAI CHÂU,
TỈNH LAI CHÂU

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp qua thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố
Lai Châu, tỉnh Lai Châu
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất phải được thực hiện trên cơ sở là kế thừa, tích lũy và phát huy những
thành tựu, kết quả đạt được, những mặt tích cực qua việc tổng kết thực tiễn
trong thi hành Luật Đất đai 2013 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành có liên
quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; đồng thời,
tìm ra được những vướng mắc, bất cập và thiếu sót, hạn chế để có những giải
pháp khắc phục, sửa chữa và kịp thời bổ sung nhằm bảo đảm sự thống nhất
giữa các luật có liên quan; trường hợp các luật khác có quy định về đất đai thì
phải thống nhất với Luật Đất đai.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất phải dựa trên nguyên tắc giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi
ích của doanh nghiệp và lợi ích của người bị thu hồi đất nông nghiệp.
Nhà nước có quyết định thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho mục đích
chung của quốc gia, dân tộc đưa đến kết quả khác nhau về lợi ích. Nên không
tránh khỏi mâu thuẫn lợi ích giữa ba bên:
- Diện tích đất Nhà nước thu hồi sẽ sử dụng để cho phục vụ cho đất
nước vì các mục đích khác nhau.
- Người dân bị thu hồi đất, mất đi tư liệu sản xuất chính, từ đó sẽ thất

66
nghiệp, không có điều kiện hoặc không có khả năng học nghề, cuộc sống trở
nên khó khăn.
- Doanh nghiệp, chủ đầu tư sau khi được Nhà nước giao đất sử dụng
vào mục đích cá nhân.
Có thể nhận thấy rõ là những ảnh hưởng tiêu cực, các thiệt hại đều
thuộc về người mất đất nông nghiệp, còn lợi ích hay tác động tích cực thường
là các chủ đầu tư, doanh nghiệp. Tuy đã thực hiện bồi thường, hỗ trợ cho
người dân bị mất đất nhưng vẫn không thể bù đắp được hết các thiệt hại đã
gây ra trong quá trình thu hồi đất do không được sự đồng thuận từ phía người
dân đang sử dụng đất nông nghiệp.
Đây chính là nguyên nhân của những khiếu kiện, khiếu nại kéo dài từ
cấp địa phương đến trung ương do người dân bị mất đất do không chấp thuận
giá đất bồi thường. Vì vậy, để hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì phải xây dựng trên nguyên tắc hài hòa
lợi ích ba bên.
Thứ ba, là định giá đất phải bảo đảm tính minh bạch, khách quan, phù
hợp với giá thị trường. Cần thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định
chi tiết về xác định giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp để giúp tháo gỡ những kiến nghị, khiếu nại của người dân;
những khó khăn, vướng mắc, trong tổ chức thi hành Luật đất đai năm 2013 và
các văn bản khác có liên quan.
Cần tổ chức nghiên cứu về việc xác định giá đất theo hướng phát triển
hiệu quả và bền vững. Tổ chức kiện toàn và phát huy vai trò của Tổ chức phát
triển quỹ đất và Quỹ Phát triển đất trong việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng
mặt bằng.
Thứ tư, hoàn thành dứt điểm việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, song song với hiện đại hóa hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về đất đai, hồ

67
sơ địa chính, bản đồ địa chính.
Nhà nước trao quyền sử dụng đất hợp pháp cho cá nhân, tổ chức,…
được thuê, giao đất bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chính là được
quyền cho thừa kế, tặng, chuyển nhượng hợp pháp. Việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cần phải được thực hiện triển khai nhanh chóng, số liệu
thống kê rõ ràng về diện tích, đánh số trên lô đất; đồng thời hiện đại hóa
thông tin về cơ sở dữ liệu như vậy công tác quản lý đất đai sẽ thuận lợi hơn.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp qua thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Lai Châu,
tỉnh Lai Châu
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi và bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Trình tự thu hồi đất được quy định trong Quyết định số 33/2014/QĐ-
UBND hiện áp dụng chung cho tất cả các loại dự án, theo một trình tự thủ tục
thu hồi đất theo các mốc thời gian giống nhau, chưa có trình tự rút gọn đối với
các dự án đặc thù. Tuy nhiên, đối với những dự án lớn hoặc nhỏ sức ảnh
hưởng về số dân là khác nhau nên cần đẩy nhanh tiến độ dự án hoặc có mức
vốn khác nhau giữa các dự án nên cần tạo sự khác biệt để giúp giảm chi phí,
rút ngắn thời gian nhưng vẫn đảm bảo lợi ích của người dân bị thu hồi đất.
Với những dự án mà toàn thể người dân bị ảnh hưởng do thu hồi đất đều nhất
trí với dự thảo phương án bồi thường đã được niêm yết công khai thì có thể
rút ngắn thời gian chuyển sang giai đoạn tiếp theo chứ không nhất thiết phải
chờ đến khi hết thời gian công khai theo quy định (ít nhất 20 ngày).
Thứ hai, cần có cơ chế tạo điều kiện xác định giá đất bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chính của người dân, đặc biệt là dân
tộc thiểu số trên toàn tỉnh, khi thu hồi đất nông nghiệp, mức giá đất dùng làm

68
cơ sở để chi trả bồi thường, hỗ trợ thấp, sự chênh lệch giữa các địa phương,
chênh lệch giá đất do Nhà nước bồi thường và do doanh nghiệp thỏa thuận
đến việc người dân không đồng ý giao mặt bằng đất dẫn đến nhiều trường hợp
phải cưỡng chế. Do đó, việc định giá đất bồi thường, hỗ trợ phải dựa trên sự
tôn trọng các nguyên tắc khách quan của thị trường, quan tâm xây dựng các
quy định và điều chỉnh linh hoạt giá đất, bảo đảm phù hợp với giá đất phổ
biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng để phù hợp với địa
phương. Ví dụ khi bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thì áp dụng theo
giá thị trường để đền bù cho người bị thu hồi đất sẽ tạo được sự đồng thuận
của người sử dụng đất.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố
cáo về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Pháp luật cần quy định quyền khiếu nại, tố cáo của người dân được
thực hiện ở tất cả các công đoạn của quá trình thu hồi đất, đồng thời cũng cần
quy định việc giải quyết khiếu nại ở giai đoạn nào thì phải được giải quyết dứt
điểm ngay ở giai đoạn đó theo đúng thời hạn luật định. Như vậy, vừa bảo đảm
quyền khiếu nại của công dân được tôn trọng, mặt khác cũng nâng cao ý thức
trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc tổ chức,
thực thi nhiệm vụ của mình, đồng thời đảm bảo tính công khai, minh bạch.
Trong các văn bản của tỉnh cần phải có thêm các nội dung quy định rõ
ràng hơn về vấn đề này để đảm bảo quá trình thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ
diễn ra nhanh chóng, hiệu quả, phù hợp với tình hình khiếu nại, tố cáo về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định pháp luật về hỗ trợ và giải quyết việc
làm cho người nông dân khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Trong quy định của pháp luật hiện hành mới chỉ quan tâm đến tìm kiếm
việc làm, đào tạo nghề cho các đối tượng trong độ tuổi lao động. Như quy

69
định tại khoản 2, điều 17 trong Quyết định số 33/2014/QĐ-UBND: “2.
Phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. Căn cứ cơ chế,
chính sách giải quyết việc làm đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định, Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Ủy ban Nhân dân cấp huyện
lập và tổ chức thực hiện phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc
làm cho người trong độ tuổi lao động tại địa phương, trình Ủy ban Nhân dân
tỉnh quy định mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho
phù hợp với từng loại hộ gia đình cá nhân có đất thu hồi.”. Trên thực tế, các
đối tượng làm nghề nông khi hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật thì
họ không có một khoản hỗ trợ nào, không lương hưu, không trợ cấp, không
tài sản tích lũy nên họ vẫn tiếp tục tham gia lao động. Dù hết độ tuổi lao động
nhưng nếu còn đất nông nghiệp họ vẫn có khả năng, sức khỏe để thực hiện
những hoạt động nông nghiệp nhất định, giúp nuôi sống bản thân và gia đình.
Hầu hết các dự án của thành phố các khoản hỗ trợ đều chỉ được quy đổi
thành tiền, việc làm tạo ra thu nhập đối với họ chỉ là con số không. Chính vì
vậy, cần có sự quan tâm, hỗ trợ để những người dân sau khi bị thu hồi đất
nông nghiệp có thể dưỡng lão, an tâm với cuộc sống mới. Nên xem xét những
chính sách hỗ trợ nhằm giảm thiểu gánh nặng an sinh xã hội như chuyển đồi
nghề, tìm kiếm việc làm phù hợp và định hướng nghề nghiệp cho những
người trong và ngoài độ tuổi lao động tại địa phương.
Vì vậy hoàn thiện các quy định pháp luật về hỗ trợ và giải quyết việc
làm một giải pháp rất quan trọng giúp người bị thu hồi đất nhanh chóng ổn
định và duy trì cuộc sống, góp phần bình ổn xã hội. Trước khi tổ chức dạy
nghề cho họ, các cơ quan có thẩm quyền trên địa bàn cần nghiên cứu kỹ, nắm
bắt rõ nhu cầu của thị trường lao động trên địa bàn để có những định hướng
cụ thể và chính xác trong công tác đào tạo nghề, tránh tình trạng đào tạo xong
không sử dụng được hoặc thị trường không có nhu cầu sử dụng.

70
Thứ năm, hoàn thiện công tác quản lý dữ liệu đất đai
Qua phân tích một số dự án trên địa bàn thành phố Lai Châu, vấn đề
còn gặp phải là người dân tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất để đòi bồi
thường theo hiện trạng, đặt ra yêu cầu thực tiễn là phải nhanh chóng hoàn
thành việc cập nhật thông tin đất đai bằng dữ liệu điện tử. Thông qua việc số
hóa đất đai này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước cũng như địa phương
trong quá trình xác định đối tượng bồi thường, hỗ trợ và bảo đảm quyền lợi
cho người bị thu hồi đất theo quy định của pháp luật.
Cuối cùng, bên cạnh các quy định chung của pháp luật trong việc bảm
đảm chi trả bồi thường, hỗ trợ cho người dân có đất bị thu hồi, các địa phương
nói chung và thành phố Lai Châu nói riêng cần vận dụng linh hoạt các chính
sách hỗ trợ riêng của tỉnh, kêu gọi sự hỗ trợ của các chủ đầu tư, các doanh
nghiệp trong công tác GPMB cũng như tạo công ăn việc làm cho người dân
trên địa bàn. Mỗi địa phương trên toàn tỉnh có thể lập quỹ hỗ trợ riêng hoặc
ban hành quy chế nhằm ưu tiên đấu thầu cho những đơn vị kinh doanh đã tạo
được công ăn việc làm cho người bị thu hồi đất nông nghiệp, sử dụng lao
động tại chỗ và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh
Lai Châu
Thứ nhất, các cấp chính quyền địa phương trong toàn tỉnh Lai Châu cần
đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch hóa quá trình thực thi pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đối với đất nông nghiệp diễn ra không
công khai, rõ ràng, minh bạch dẫn đến việc trong quá trình thu hồi đất người
dân vẫn còn có thái độ bất bình, không đồng ý đối với phương án bồi thường,
hỗ trợ đã đưa ra. Từ đó việc cán bộ thực thi việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

71
nước thu hồi đất nông nghiệp đã gây nên những nghi ngờ trong nhân dân về
sự không công tâm trong công tác thực hiện. Vì vậy, trình tự cưỡng chế thu
hồi đất phải đảm bảo quyền lợi của người có đất thu hồi; đảm bảo công khai,
minh bạch và dân chủ; thực hiện đầy đủ trách nhiệm đối thoại, tăng cường sự
tham gia trực tiếp của nhân dân và giải trình của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khi người dân chưa đồng thuận trong việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp. Đồng thời, thực hiện nghiêm việc lấy ý kiến và
công khai phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nhằm phát
huy dân chủ, công khai minh bạch, tăng cường sự giám sát của các cơ quan,
tổ chức và quần chúng nhân dân trong việc bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất
nông nghiệp, cũng như các vấn đề phát sinh trong quá trình thu hồi đất.
Thứ hai, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thực hiện rà soát kỹ về hiện trạng sử dụng đất tránh tình trạng người
dân tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng, tiến hành đo đạc diện tích đất đai đồng
bộ; nghiêm túc thực hiện cải cách thủ tục hành chính về việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất để giảm thời gian chờ đợi của người dân. Tiếp tục
đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu
điện tử để phục vụ cho việc quản lý thuận tiện, thống nhất với hồ sơ địa chính
tại thành phố Lai Châu nói riêng và trong toàn tỉnh Lai Châu nói chung.
Thứ ba, tỉnh Lai Châu nói chung và UBND thành phố Lai Châu nói
riêng cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đất đai nói
chung cũng như pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp cho người dân.
Không thể phủ nhận rằng có không ít khiếu nại vô lý, thiếu căn cứ, đặc
biệt do người dân không nắm được pháp luật lại bị các phần tử xấu lôi kéo,
xúi giục không chấp hành quyết định thu hồi đất của chính quyền, đi khiếu nại
vượt cấp, gây bất an dư luận. Tại nhiều dự án, một số người dân đã ngăn cản

72
cán bộ đến đo đạc, kiểm đếm vì không hiểu biết quy trình tiến hành GPMB,
nhận tiền hỗ trợ GPMB nhưng vẫn không chịu bàn giao mặt bằng cho chủ đầu
tư, dẫn đến phải thực hiện cưỡng chế thu hồi đất.
Để khắc phục tình trạng này, đặc biệt Lai Châu là tỉnh miền núi với dân
tộc thiểu số chiếm đa số, trình độ dân trí của họ còn thấp và chủ yếu sinh sống
bằng nghề nông nên trước tiên phải thay đổi nhận thức của họ thông qua công
tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp Luật về đất đai nói chung, về thu
hồi, bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp nói riêng. Hệ thống pháp luật về đất
đai khá đa dạng và phức tạp, phần lớn các quy định liên quan đến công tác bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được nằm rải rác tại
nhiều văn bản từ Trung ương đến địa phương, để người dân có thể nắm bắt
được quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ pháp luật đất đai thì công tác
tuyên truyền đòi hỏi sự khéo léo, đa dạng hóa về mặt hình thức, linh hoạt về
nội dung phù hợp với từng đối tượng tiếp nhận. Đặc biệt, trước khi tiến hành
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và giải phóng mặt bằng chủ đầu tư cần phối
hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện tuyên truyền, vận
động giúp người dân nhận thức, ủng hộ các chủ trương thu hồi đất của Nhà
nước, từ đó dễ dàng đồng ý, chấp nhận các phương án bồi thường, hỗ trợ khi
có đất nông nghiệp bị thu hồi.
Mặt khác phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của UBND cấp trên, Mặt
trận tổ quốc và các đoàn thể đối với quá trình thực hiện việc tuyên truyền, phổ
biến và giáo dục pháp Luật Đất đai nói chung cũng như pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của UBND các cấp để phát
hiện, chấn chỉnh kịp thời những yếu kém, sai phạm và xử lý nghiêm cơ quan,
đơn vị không thực hiện hoặc thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật
một cách qua loa hình thức.

73
Kết luận Chương 3

Thông qua các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành các quy định này tại thành
phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu đã cho thấy được việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phải căn cứ
vào chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về đất đai, gắn
với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về đất đai.
Để thực hiện tốt những quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất và bảo đảm quyền lợi của người dân thì Nhà nước
và người làm công tác xây dựng pháp luật phải hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Đây là một nhiệm vụ
hết sức khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có một quá trình. Bên cạnh việc
nâng cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp thì việc bồi dưỡng trình độ
chuyên môn cho đội ngũ cán bộ của các cơ quan thực thi pháp luật cũng là
điều rất cần thiết. Vì vậy, pháp luật phải quy định rõ ràng, cụ thể chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan, khi thực hiện
nhiệm vụ của mình.
Tại Chương này, trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai
Châu, tỉnh Lau Châu, tác giả đã đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp nói chung và các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật của Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp tại thành
phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Các định hướng và giải pháp đưa ra đảm bảo
tính khả thi, phù hợp với tình hình thực tế trên địa bàn thành phố.

74
KẾT LUẬN

Trong quá trình phát triển đất nước và xu hướng hội nhập kinh tế quốc
tế, thì bản thân việc thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng để
phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng là cần thiết đối với quốc gia
nhưng lại tác động rất lớn đến người bị thu hồi đất. Vì thế, phải có những
chính sách và quy định pháp luật cụ thể về bồi thường, hỗ trợ cho những thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp gây ra những thiệt hại cho người sử
dụng đất. Nhà nước cũng cần phải điều tiết, giải quyết hài hòa lợi ích giữa
người bị thu hồi đất, Nhà nước và chủ đầu tư (doanh nghiệp). Từ đó, sẽ tạo
động lực cho sự phát triển của xã hội nếu giải quyết tốt lợi ích kinh tế giữa ba
chủ thể này; và ngược lại, nếu không làm tốt sẽ là nguyên nhân của những đối
kháng và mâu thuẫn xã hội.
Với mục đích nghiên cứu ban đầu, Chương 1 của luận văn đã tập trung
làm rõ những vấn đề lý luận chung và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, Chương 2 của luận văn tìm hiểu nội
dung pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, luận văn cũng đã đi sâu phân tích thực trạng những quy định của
pháp luật hiện hành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp
luật đất đai trên địa bàn thành phố Lai Châu; thực tiễn thi hành pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ đối với người dân bị thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố
Lai Châu, tỉnh Lai Châu (từ năm 2015 đến năm 2019); chỉ rõ những tích cực,
khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong trong việc thực thi pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu.
Từ những phân tích, đánh giá qua việc thi hành các quy định của pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn

75
tại thành phố Lai Châu, Chương 3 đã nêu ra quan điểm và đưa ra những định
hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu,
tỉnh Lai Châu.
Qua nghiên cứu đề tài: “Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai
Châu”, tác giả xin phép đưa ra một số kết luận sau:
1. Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh; lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và sử dụng vào mục đích
phát triển kinh tế chung của đất nước không do lỗi của người sử dụng đất gây
ra mà xuất phát từ nhu cầu thực tế khách quan của xã hội.
2. Những hậu quả năng nề đã gây ra cho người sử dụng đất khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp là một điều không thể phủ nhận. Do đó, để khắc
phục hậu quả, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng đất nông nghiệp, thì trong những quy định của pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam không chỉ đề cập
đến việc bồi thường về diện tích đất thực tế bị thu hồi, về thiệt hại tài sản gắn
liền với đất bị thu hồi; ngoài ra còn có các quy định về hỗ trợ hỗ trợ việc đào
tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ đời sống gặp khó khăn cho người trực
tiếp sản xuất nông nghiệp bị mất đất sản xuất.
3. Để tạo hành lang pháp lý cho công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất (trong đó có bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp), Quốc hội cũng đã cho ra đời Luật đất đai năm 1993, 2003 và
mới nhất tại thời điểm hiện tại đang áp dụng là Luật đất đai năm 2013 cùng
nhiều văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành việc bồi thường, hỗ trợ.

76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia), Đất nông nghiệp,


https://vi.wikipedia.org/wiki/Đất_nông_nghiệp.
2. Báo cáo thuyết minh tổng hợp, “Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất
đến năm 2020, lập kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016 - 2020) tỉnh Lai Châu”,
Lai Châu.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Thông tư số 37/2014/TT-
BTNMT ngày 30/06/2014 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.
4. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, Hà Nội.
5. Chính phủ (2014), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy
định về giá đất, Hà Nội.
6. Chính phủ (2014), Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.
7. Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu, “Thành phố Lai Châu”,
http://laichau.gov.vn/danh-muc/tong-quan-lai-chau/cac-huyen-xa-thuoc-
tinh/thanh-pho-lai-chau.html, Thứ 3, 10/11/2020; 16:07
8. Điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của tỉnh Lai Châu,
http://laichau.gov.vn/gioi-thieu/dieu-kien-kinh-te-xa-hoi/dan-so-va-nguon-
lao-dong-loi-the-ve-tu-nhien-loi-the-ve-vi-t.html. Thứ 5, 28/05/2020; 15:42
9. Điều kiện tự nhiên xã hội, Trang thông tin điện tử Thành phố Lai
Châu, http://thanhpho.laichau.gov.vn/gioi-thieu/dieu-kien-tu-nhien-xa-hoi-
28.html. Chủ nhật, 01/06/2014; 00:48
10. Hoàng Thị Lan (2019), “Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp theo pháp Luật đất đai từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Luận

77
văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Trần Thị Huyền Lê (2015), “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Hà Nam”, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Nga (2013), “Một số ý kiến trao đổi về vấn đề thu hồi
đất, bồi thường,hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Dự thảo
Luật Đất đai sửa đổi”, Hội thảo khoa học góp ý Luật Đất đai sửa đổi, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Nga (2013), “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất - Thực trạng và hướng hoàn thiện”, đề tài khoa
học cấp trường, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
14. Trần Nhật Quân (2018), “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.
16. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội.
17. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
18. Đinh Hùng Sơn (2016), “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp - Thực tiễn thi hành tại địa bàn huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn
La”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội, Hà Nội.
19. Thông tấn xã Việt Nam, “Lai Châu: Thu đất làm Trường THPT
chuyên Lê Quý Đôn đúng quy định”, https://www.vietnamplus.vn/lai-chau-
thu-dat-lam-truong-thpt-chuyen-le-quy-don-dung-quy-dinh/536583.vnp.
24/11/2018; 07:57
20. Nguyễn Duy Thơ (2017), “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn quận Dương Kinh, thành phố Hải
Phòng”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội, Hà Nội.
21. Phạm Thu Thủy (2014), “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu

78
hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội.
22. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Lai Châu (2019), “Tổng hợp
kết quả thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng năm 2018 và 6 tháng đầu
năm 2019”, thành phố Lai Châu, Lai Châu.
23. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Lai Châu (2019), “Tổng
hợp kết quả hỗ trợ, tái định cư và giải quyết việc làm”, thành phố Lai Châu,
Lai Châu.
24. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Lai Châu (2019), “Biểu
tổng hợp tiến độ các dự án thu hồi đất năm 2018 và 6 tháng đầu năm 2019”,
thành phố Lai Châu, Lai Châu.
25. TS. Nguyễn Quang Tuyến (2008), Vấn đề thu hồi đất và bồi thường
khi thu hồi đất trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung), Tạp chí Luật
học, (số 12).
26. TS. Nguyễn Quang Tuyến (2008), Bình luận các quy định về thu
hồi đất và bồi thường khi thu hồi đất trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi),
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (số 12).
27. PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến (2009), Vấn đề lý luận xung quanh
khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp chí Luật học, số 1/2009.
28. Nguyễn Quang Tuyến, Nguyễn Minh Ngọc (2010), "Pháp luật về
bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở Singapore và Trung Quốc
– Những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về bồi thường, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, (số 10).
29. PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến (2012), Công khai, minh bạch để
bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (số 2).
30. PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến (2013), Kinh nghiệm của một số
nước về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, Bản tin Thông tin Khoa học

79
Lập pháp (số 01).
31. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2014), Quyết định số 33/2014/QĐ-
UBND ngày 05/11/2014 về việc ban hành Quy định một số nội dung về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư; trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư trên địa bàn Tỉnh Lai Châu, Lai Châu.
32. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2014), Quyết định số 34/2014/QĐ-
UBND ngày 05/11/2014 về việc ban hành Quy định về trình tự thực hiện thu
hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Lai
Châu, Lai Châu.
33. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2014), Quyết định số 43/2014/QĐ-
UBND ngày 19 tháng 12 năm 2014 về việc ban hành giá đất trên địa bàn tỉnh
Lai Châu, Lai Châu.
34. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2016), Quyết định số 21/2016/QĐ-
UBND ngày 22 tháng 7 năm 2016 về việc ban hành bổ sung giá đất trong
bảng giá đất của các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Lai Châu ban hành
kèm theo Quyết định số 43/2014/QĐ-UBND ngày 19/12/2014 của UBND tỉnh
Lai Châu, Lai Châu.
35. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2016), Quyết định số 46/2016/QĐ-
UBND ngày 21 tháng 11 năm 2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định
ban hành kèm theo quyết định số 33/2014/QĐ-UBND, Quyết định số
35/2014/QĐ-UBND; bãi bỏ một số điều của quy định kèm theo quyết định số
34/2014/QĐ-UBND, số 35/2014/QĐ-UBND; bãi bỏ quyết định số
30/2013/QĐ-UBND của ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu, Lai Châu.
36. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2017), Quyết định số 30/2017/QĐ-
UBND ngày 14/8/2017 ban hành đơn giá bồi thường về nhà, công trình xây
dựng trên đất, cây trồng, vật nuôi và các tài sản khác gắn liền với đất khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu, Lai Châu.

80
37. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2018), Quyết định số 31/2018/QĐ-
UBND ngày 24 tháng 09 năm 2018 điều chỉnh, bổ sung giá đất trong bảng
giá đất trên địa bàn tỉnh lai châu ban hành kèm theo quyết định số
43/2014/QĐ-UBND ngày 19/12/2014 của UBND tỉnh Lai Châu, Lai Châu.
38. https://luatduonggia.vn/dat-nong-nghiep-la-gi-phan-loai-cac-loai-
dat-nong-nghiep/. 13/10/2020
39. https://azlaw.vn/boi-thuong-thu-hoi-dat-dai-theo-quy-dinh-phap-
luat.htm. 19/08/2019
40. http://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/phap-luat-ve-ho-tro-khi-
nha-nuoc-thu-hoi-dat-thuc-trang-va-mot-so-khuyen-nghi-26704.htm.
20/03/2017; 14:03
41. https://tapchitoaan.vn/bai-viet/xay-dung-phat-luat/luat-dat-dai-va-
hoan-thien-phap-luat-dat-dai-o-viet-nam-hien-nay.

81

You might also like